Chiều tĩnh vật
Em nghe không chất ngất tiếng hoàng hôn giập vỡ
cây & lá hồi còi lục diệp
giọt chim gù hổ phách ngước tràn ly
Chúng tôi về chiều đã lấm đầy tay
Chúng tôi hớp từng giọt sương nhánh ngọ
Tự tình với điếm canh
Trăng
đang xanh, trăng đang mải mê tròn vành, trăng đi từ biển, trăng về từ núi,
trăng ngã dúi dụi vào đồng quê. Người ta bảo trăng ở biển thì ấm, trăng lên núi
thì lạnh, trăng về đồng bằng trăng tạnh chiêm bao.
Nào ai biết trăng đã tạnh chiêm bao, tôi trở về quê hương sau những hao gầy, sau những mải mê cơm áo no đầy, sau những chập chờn mộng mị, sau những ngày đi tháng nghĩ, sau những bước chân bền bỉ, chỉ thấy một đêm trăng đang lên em xanh.
Điếm canh làng Việt, một thứ quê hương đã tựa
lưng vào những vui buồn, đã âm ỉ những mùa nắng cạn, đã thơi thới những
mùa mưa giông, đã trông chừng những mùa mắt anh mắt em ngập ngừng. Thương nhớ!
Điếm canh chỉ như một dấu chấm xanh nhỏ nhoi vậy
đấy, mà điếm canh đã như một nốt nhạc in lên khuông đời em, in lên khuông đời
tôi, ngân nga và tha thiết. Điếm canh là một kiến trúc công cộng được xây dựng
khá phổ biến ở nông thôn, ra đời trong quá trình hoàn thiện đơn vị cư trú cơ
bản ở nông thôn Việt truyền thống: làng, xã. Chỉ một thôi điếm canh mà ngôi
làng xanh lên bờ bãi. Chỉ một thôi điếm canh mà triền đê ngọt ngào mãi mãi. Chỉ
một em, chỉ một tôi, chỉ một dòng sông lở bồi và ở đâu tự bao giờ bồi hồi điếm
canh trong mắt ai xanh?
Tôi ngập ngừng khi điếm canh đơn sơn sơ dựng
bằng tre pheo. Tôi bền chắc và chững chạc khi điếm canh xây bằng
gạch, đá ong, kèo gỗ, lợp ngói. Nhưng dù lớn đến mấy tâm hồn tôi cũng không
thoát nổi một điếm canh không quá 3 gian, dáng dấp gọn gàng, tường xây bít đốc.
Điếm canh làng Việt thoạt nhìn tưởng chừng như không có trang
trí, như một gã nông dân quê mùa. Nhưng nhìn kỹ ta lại thấy điếm canh chi tiết
khúc chiết gọn gàng, mộc mạc, không hề có cái thừa ở điếm làng. Các chi
tiết như hơi to, thậm chí quá cỡ so với khung và khối của điếm, đắc dụng ở cái
chắc, thưa thoáng, cái nào ra cái ấy. Bởi vậy mà nhìn từ xa điếm canh như
một chỗ tựa lưng để thở, ngả vai để yêu và dõi mắt lên trời xanh mây trắng để
mùa vụ nối tiếp tháng ngày.
Theo
những ghi chép từ xa xưa điếm canh có lẽ là công trình được hưởng đặc
quyền nằm ngoài lũy tre làng, có khi ta thấy nó khá xa mép làng do chức
năng như một trạm canh phòng của làng xóm. Cũng bởi vậy mà điếm canh như một
nơi giữ nhịp tim làng, người ở xa về tìm hướng điếm canh, người ở nhà chầu chực
điếm làng. Chẳng phải đó là nơi cho ta hò hẹn những mùa bể dâu.
Một chiều vãn năm , tôi từ
phương xa trở về. Đứng trên triền đê Trà Lý mà nhìn dòng sông âm thầm biển cả.
Dõi mắt về phía xa xa ở dưới chân đê, ở dưới những chân khói nhà ai ngơ ngác
đang bay, điếm canh nhập nhòa trong hơi thở của dòng sông trễ nải.
Đã bao năm rồi, đã bao tháng rồi, đã bao ngày
rồi, đã bao đời rồi, điếm canh vẫn tồn tại và hiện hữu từng chân quê, thửa
ruộng bờ đê. Quê hương tôi đã lên thành phố từ lâu rồi, dòng sông tôi đã kè đá
hai bên bờ từ lâu rồi, vậy mà những điếm canh vẫn còn đó nghiêng ngó cuộc đời.
Có gì mà lạ đâu, điếm canh vẫn như những con mắt
nhân gian của anh, của em, của muôn vàn nương náu hồn quê, tình quê mà thao
thức dòng đời. Điếm canh cũng chính là con mắt của lịch sử, chứng kiến những
đổi thay, ghi dấu những tốt xấu, ám ảnh những trái ngang buồn thương còn vương
mai sau đời sau ngày sau, ai nắm tay nhau.
Chiều lại chiều thêm, ngày lại ngày thêm, tiết
trời cuối năm đổ lên đầu con đê bao khói sương bảng lảng. Đời ai huyền hoặc,
chân ai thoăn thoắt, đời ai ngoảnh mặt, bàn tay ngoăn ngoắt? Vội gì đâu mà qua
điếm canh, buồn gì đâu mà sầu điếm canh, yêu gì đâu mà tình điếm canh, quên gì
đâu mà nhìn điếm canh?
Thả xuống dòng trôi đâu đây những nụ cười chín
đỏ hây hây. Dòng sông Trà lặng thinh soi gương điếm canh, tôi lặng thinh soi
gương lòng em, ai lặng thinh soi gương đời ai. Bờ vai phủ đầy bóng tối.
Bóng tối đã triền xuống ải đê bao, đê vùng, bao
nhiêu con đê làng xưa lũy xưa, bao nhiêu tình quê, nghĩa quê, đời quê cũng ngả
vào dáng dấp điếm canh nửa tỉnh nửa mê.
Dòng
sông trôi như tôi, thời gian ngang như vai, đời ai mặn nhạt,thân ai ngọt bùi,
đời ai dấp dúi, cơ hồ điếm canh? Tôi ngả về đâu những vạt ngô non mùa vụ thương
nhớ cỏn con. Tôi bới ở đâu khoai vùi đầu bãi. Lòng tôi rộng rãi, phố xá chật
chội. Đời tôi ái ngại dòng sâu đời xa.
Ai đã vén màn đêm trên con đê quê nhà ăm ắp kỷ
niệm, tôi bước lại gần điếm canh mà nhắc những chặp tha hương. Bóng tôi nhỏ bé,
bóng trăng đổ dài, thương yêu nhỏ bé, điếm canh vươn vai. Tình tôi nhỏ bé, hồn
tôi nhỏ bé, đời tôi bé nhỏ điếm canh dông dài…
Những con mắt Hà Giang
Mỗi
năm, khi những lạnh lùng bắt đầu từ xứ Bắc manh nha quay quắt vùng
cao, những ngọn nắng như những đốm lửa cuối mùa nhảy nhót trên khung
dệt người Pà Thẻn, những ưu tư từ đâu vòm sâu tắt bóng tối đèn rục
rịch quay về, thì cũng là lúc loài hoa mang
tên tam giác mạch lại đồng loạt bật những yêu thương, bừng sáng trên các
thửa ruộng bậc thang, các sườn núi cheo leo nơi cao nguyên đá.
Trở lại Hà Giang, trở lại Hoàng Su Phì, Xín Mần, Phó Bảng, Phố Cáo, Sủng Là, Đồng Văn, Lũng Cú, Ma Lé, những địa danh khiến cho lòng tôi bậm bọe, lảnh lót đàn môi, nhữngyêu thương, vươn vai ngời ngợi, bập bùng nhớ ai đợi ai chờ ai ngập ngừng bếp lửa. Tôi lại có dịp hỏi trái tim mình: này mày thương ai, này mày nhớ ai, mà mỏi đường dài, mà quên đường dài, mà sớm mai tình, mà chiều nay tình, mà sương khuya lặng thinh, những cánh hoa trĩu nặng hồn đất, ẩn dật hồn rừng, nghiêng nghiêng cuối thu ngả ngả chạm đông những cánh đồng tam giác mạch hoa về lách tách Hà Giang.
Tam
giác mạch như một cô gái, nó tự đặt chiếc đồng hồ báo thức của
mình, cuối tháng 10, đầu tháng 11 loài hoa có vòng đời ngắn ngủi này bất
chợt reo vui hồn nhiên, ngỡ ngàng loang loáng sắc trắng nét hồng, rồi
âm thầm chuyển nhựa mà tím mê tím mải. Hà Giang thêm một lần con
đường xa ngái trở nên gần gụi, gió đông về cũng chẳng làm buồn
phiền những đọt đá cao, chẳng làm ưu tư những bờ tường rào, chỉ
thấy tình đất, tình quê, tình người cứ âm thầm bung những dải màu
trắng hồng cho đến tím tím ngan ngát đến tận chân đèo đến tận những
thửa ruộng bậc thang nhà ai sớm nay chiều mai.
Không
biết tôi có phải là người ẵm cái duyên tiền kiếp với Sủng Là mà cứ
mỗi lần vòi vọi vùng cao thì tôi lại mải mê thương nhớ bóng người
Sủng Là, âm thanh điệu khèn Sủng Là, ngóng người phía núi mà rạo
rực mùa tam giác mạch đang ấp ủ rọc rạch bao nguồn nhựa sống từ
Sủng Là này, từ nơi đá nở hoa này.
Cao
nguyên đá thêm một lần trầm ngâm, vài điệu khèn mê tơi buông xuống ấp
ủ những thung sâu còn lâu mới tối. Cô gái Mông ngẩng mặt bẽn lẽn
thắp những ánh đèn vào buổi chiều diệu vợi. Chàng trai Lô Lô ngồ
ngộ nâng bước chân cao đuổi ánh mặt trời mỗi sớm Mèo Vạc, Đồng Văn.
Và hoa tam giác mạch lại thêm một lần bước ra từ cổ
tích, mỗi đốm hoa bé xíu bé xinh như con mắt Hà Giang, như con mắt cô
gái Mông, như những con mắt tình tứ của thảo mộc chăm bẵm những buổi
chiều yêu thương ngủ bên bờ nương rẫy. Con mắt ấy nhìn tôi, con mắt ấy
nhìn bạn, những con mắt ấy bảo nhau say đắm ngẩng đầu. Trời xa còn
sâu. Màu hoa tình thâu, những đêm dài mê mải. Hà Giang…
Thức
dậy một ban sớm ở giữa Sủng Là, tôi đã quên mình đến từ đâu, tôi đã
quên mình thương từ đâu, tôi đã quên mình yêu từ đâu, tôi đã ngỡ mình
vừa bung ra từ cánh hoa này, từ vạt hoa này, từ khắp đồi khắp núi
khắp thung màu hồng loang tím này. Ấy là đôi mắt của tình tôi, ấy
là đôi mắt của hồn tôi, ấy là nụ cười cô gái vụng dại ngỡ là chiêm
bao tình lắm vùng cao. Hoa tam giác mạch đấy, nhẹ thôi nhé, khẽ thôi
nhé, những hơi thở của đại ngàn, những mỏng manh của tơ đàn. Chúm
chím nhìn nhau. Như em nhìn về phía anh. Như anh nhìn về phía em. Ngọt
lừ trong veo réo rắt, những cung bậc Hà Giang, những con mắt Hà Giang.
Những con mắt chỉ thấy niềm hân hoan, những con mắt choàng lên mùa
đông ấm áp. Chứa chan…
Khi ánh
mặt trời đẩy tôi lên đỉnh cao Lũng Cũ, tôi nhìn mảnh đất ngờm ngợp dưới
kia, tôi nhìn những phập phồng đất đai ban sơ dưới kia, những vạt áo
tam giác mạch như trăm ngàn con mắt phản chiếu thứ hồng quang cờ đỏ
sao vàng. Tổ quốc thêm một lần tái hiện bằng những con mắt của hoa,
của núi, của rừng và hơn tất thảy là những con người thấm đẫm ngọt
bùi Hà Giang.
Chiều
hôm ấy, như những buổi chiều loài họa mi Hoàng Su Phì lượn mình
xuống thung sâu, thả những giọt âm thanh cất cao từ đâu, tôi lặng ngắm
những con mắt đang nhảy nhót ngày đông Hà Giang. Ngập ngừng Phó Bảng,
cũng là một nơi tưởng chừng cô đơn nhất thế gian, người đời từng gọi
là thị trấn bị quên lãng. Tôi lại thấy nơi đây thật tuyệt vời để những
con mắt nhìn chan chứa mắt. Ngày đông úp mặt, tháng đông ngoảnh mặt,
mà yêu thương vẫn chẳng ngừng tuôn ra từ trăm ngàn con mắt. Những con
mắt còn đang thắp mày ủ mạch. Những con mắt Hà Giang cứ làm mỗi
bước chân người đến vùng cao thêm rộn ràng và quyến luyến.
Này là đôi mắt em. Này là đôi mắt anh. Này là
đôi mắt của bao người. Những con mắt Hà Giang… Như khi em nhìn về phía
anh…
Cô gái dã quỳ
Dã
quỳ bừng lên, dã quỳ ngời lên, dã quỳ vàng lên, dã quỳ quên tên trong
âm hưởng của Tây Nguyên rạo rực. Tiếng cồng ôm ngực, tiếng chiêng
yêu ngực, tiếng đàn rưng rức, như đàn chim thiêng chầu chực bay vào đêm
huyền bí. Dã quỳ thênh thang.
Dã
quỳ thênh thang, dã quỳ thênh thang, dã quỳ thênh thang, dã quỳ miên man
cho cao nguyên như cô gái điệu đà. Dã quỳ người ta, dã quỳ của tôi,
dã quỳ của em, dã quỳ ẩn nấp những gương mặt người lạ kẻ quen. Này
em cô gái dã quỳ.
Này
em cô gái dã quỳ. Không hiểu sao tôi vẫn luôn ám ảnh về loài hoa dã
quỳ dịu dàng như một cô gái Tây Nguyên, cô gái Kon Tum, cô gái Gia Lai,
cô gái Đăk Nông cô gái Lâm Đồng. Những cô gái của tôi luôn lơ đãng như
một Nụ cười Tây Nguyên.
Không
riêng gì ở Tây Nguyên mới có dã quỳ, những người yêu hoa, yêu sắc
vàng mê mải cũng có thể tìm gặp dã quỳ ở một số vùng miền núi
Tây Bắc. Nhưng trung thực mà nói chỉ có ở Tây Nguyên, chỉ có ở Đà
Lạt thì hồn vía dã quỳ mới thênh thang như một cô gái chưa chồng.
Cô
gái chưa chồng bỗng một ngày cuối tháng Mười nhoẻn miệng cười vàng
hoe. Một bông mỉm cười, hai bông mỉm cười, ba bông mỉm cười, con dốc
mỉm cười, sườn đồi mỉm cười, những cô gái mỉm cười. Tình yêu mỉm
cười.
Mỗi
một loài hoa đều gắn sắc của nó, hương của nó, vẻ đẹp của nó một
truyền thuyết, một sự tích hay một huyền thoại. Loài dã quỳ cũng
vậy, dã quỳ là câu chuyện tình yêu của nàng H’limh dành cho chàng
trai K’lang. Và dã quỳ đã trổ bông đầu tiên từ mũi tên hận thù của
La rihn con trai tộc trưởng Lasiêng găm vào cô gái bất tử H’limh.
Trả
đũa hận thù bằng những bông hoa, loài dã quỳ đã tươi tắn vẽ lên bức
tranh đẹp của cuộc đời. Yêu là tha thứ? Bởi vậy mà dã quỳ luôn
khiến những trái tim ngẩn ngơ khi những đọt mưa cuối cùng ngấm ngầm
thảo thơm vào lòng đất. Dã quỳ an nhiên.
Dã
quỳ an nhiên. Dã Quỳ chẳng sức
đâu mà muộn phiền. Thời gian của nó không nhiều bởi vậy với dã quỳ
sống là đam mê. Khi những cơn mưa buổi chiều nơi cao nguyên Lâm Viên không
còn thảng thốt những nỗi cô đơn. Dã quỳ bắt đầu nhen nhóm lên màu
vàng của nó. Dã quỳ đến thật đúng lúc, nó sưởi ấm cho những sườn
đồi, nó bá vai khoác tay tình nhân, nó tần ngần luyến lưu hạnh ngộ,
nó thổ lộ hương rừng ngai ngái sương đêm. Dã quỳ tình tự ai nỡ lòng
quên.
Khi
những ban mai còn mơ nỗi trăng tròn, khi những yêu thương còn tình tự
sao khuya, khi những hơi ấm mà lòng người còn đang dè dặt thì dã quỳ
hổn hển nắng vàng. Trời ơi là nắng, cơ man là nắng, yêu thương là
nắng, mải mê là nắng, thỏa thuê sắc vàng trên những con đường nắng,
sau những lùm cây, sắc vàng trong mắt ai đây?
Là
dã quỳ đó, nó bật ra khỏi hơi lạnh co ro, nó xòe cánh mỏng, nó bung
mật vàng, nó loanh quanh trườn dốc, nó hối hả chân đèo, nó bò, nó
leo, nó vặn mình trên cao nguyên màu mắt em bình yên, màu mắt tôi thản
nhiên, màu nắng, màu hoa, màu không gian ngọt vàng sầm sẫm. Dã Quỳ em ơi!
Từ
đường vào làng hoa Vạn Thành là đoạn đường vào sân bay Cam Ly cũ. Có thể
cũng chính vì những đặc điểm riêng của cung đường này mà vì thế mà
hai bên đường không còn bị chặt phá, dã quỳ cứ vàng dại vàng hoe.
Trở
mình tìm em trên cao nguyên Langbiang cung đường với thung lũng vàng, tôi
thấy em, tôi thấy nàng, tôi thấy dã quỳ đang mơ màng thơm ngái. Đố ai
nhận ra mùi hương của dã quỳ? Phải là người yêu Tây Nguyên, phải là
người yêu rừng, phải là người yêu những nụ hôn ngập ngừng thì mới
nhận ra mùi hương của dã quỳ.
Đừng
so sánh hương dã quỳ với hương hoa hồng, hương hoa sữa, hay bất kỳ một
mùi hương của loài hoa nào khác. Bởi đơn giản dã quỳ mang mùi hương
của núi, dã quỳ mang mùi hương từ trái tim cô gái H’limh, quê mùa dân
dã mà vẹn nguyên chung tình. Một khi bạn nhận ra mùi hương của dã
quỳ đang ngai ngái sương mai là khi bạn đã yêu dã quỳ tới mức yêu là
cống hiến.
Có
những lý lẽ vô cùng giản đơn ở giữa cuộc sống xô bồ. Đó là khi bạn
yêu thương một loài hoa thì bạn sẽ nhận được mùi hương và vẻ đẹp
của nó dành cho bạn. Khi bạn không có yêu thương thì cho dù loài hoa
ấy có đẹp đến cỡ nào, có thơm đến nhường nào thì vĩnh viễn nó
chỉ là một loài hoa tầm thường vô tri. Như bạn từng tầm thường và vô
tri trong suy nghĩ của người khác…
Một
ngày dã quỳ, tôi phong thanh
những cơn gió lành lạnh từ hơi núi phả ra, một vài con đường đã khô
khan mùa mưa cuối. Nhìn lên phía trên kia cao nguyên đang bừng tỉnh, tôi
cúi đầu mà cười, tôi ngoảnh mặt mà hiền, tôi se sắt mà yêu, tôi dùng
dằng mà thương, tôi hối hả mà nhớ, tôi cũng thấy mình vàng dại vàng
hoe. Này em cô gái dã quỳ!
Tháng Sáu, Hà Nội, em và
những cơn mưa
Mỗi
khi có dịp trở về Hà Nội tôi lại dông dài với những cơn mưa tháng Sáu, những
cơn mưa kỷ niệm, những cơn mưa em còn bày biện nỗi nhớ học trò, trên những con
phố nhỏ, quả sấu chín rụng vào đêm đèn khuya bay lên.
Dọc con phố Phan Đình Phùng, thủa xưa tôi thường
qua đây, đám học trò vẫn như chưa biết điều gì sắp xảy ra với cuộc chia ly âm
thầm sắc đỏ. Vẫn còn đó là phố, vẫn còn đó là những hàng sấu già nua, vẫn còn
đó là những cơn mưa, ngóng đợi ngày dài vời vợi.
Mưa về ngang phố, mưa về ngang tay, mưa về ngang
cây, mưa còn đợi mây, mưa sầm mưa sập, mưa rối mưa bời, mưa thỏ thẻ lời, phố ơi
còn tôi, mưa bỏ quên rồi, phố ơi còn em…
Phố ơi còn em, chiều vội lên đèn, phố Phan
Đình Phùng, phố Mai Xuân Thưởng, là phố Hàng Cót là phố Hoàng Diệu, là phố Đặng
Dung kéo về Hàng Bún. Phố lên màu nhớ, phố bờn bợt mưa, ở đâu phố vừa một tà áo
trắng, ở đâu phố vừa giọt mưa câm lặng, ở đâu phố vừa sấu rơi đường
khuya?
Sấu rơi đường khuya, mưa rơi đường khuya, nhớ
rơi đường khuya, buồn rơi đường khuya, tôi rơi đường khuya, em còn đường khuya?
Em
còn đường khuya, mưa vùi tháng Sáu, em còn đường khuya, bầy sẻ nương náu, em
còn đường khuya phố già chết lặng, em còn đường khuya tôi chờ ai kia?
Những cơn mưa tháng Sáu như một bản tình ca của
em, của ai, của tôi, người của muôn nơi, những góc phố, những tâm tình phố,
những bờ vai phố, những nhớ nhung phố, những thở dài phố, Hà Nội trầm ngâm…
Nếu tháng Năm là một tháng ồn ào và náo nhiệt
thì tôi lại thấy, lại nghĩ tháng Sáu ở Hà Nội mỏng manh, mươn mướt, thườn thượt
hoài niệm.
Có những buổi chiều Khâm Thiên, con phố trổ mình
trong mưa, con phố trắng xóa, con phố nênh nổi, con phố chìm bọt, con phố chiều
rơi mù khơi. Theo người, theo xe, theo những ngược xuôi mà nghe, mưa đổ về
thành phố. Qua Nguyễn Lương Bằng, qua Tôn Đức Thắng, tôi bùi ngùi Ngã Tư Sở,
tôi dầm dề Nguyễn Trãi, tôi mưa Thanh Xuân, tôi đăng đàn tháng Sáu, và tôi chết
lặng một hồ sen Phùng
Khoang.
Phùng
Khoang là một làng cổ của Hà Nội, gọi là hồ sen nhưng đó chỉ là một khoảng hồ
nhỏ trước mặt của chùa Phùng Khoang nằm kế bên cổng làng. Chùa Phùng Khoang là
một trong những công trình kiến trúc có quy mô lớn và theo ý nghĩa của người xưa
thì chùa Phùng Khoang có tầm quan trọng ảnh hưởng tới sự tín ngưỡng, tôn giáo
tạo nên một không gian văn hóa vô cùng đặc biệt. Bởi chùa Phùng Khoang là hợp
thể của các đơn nguyên kiến trúc có thể kể đến như: tam quan gác chuông, toà
tam bảo, nhà thờ Tổ, nhà thờ Mẫu và tăng phòng…
Trong những giấc mưa của thành phố, trong những
bụi bặm mà cơn mưa xô xuống vệ đường, những đóa sen nhỏ nhoi ven hồ vẫy mưa mà
lên, vẫy mưa mà quên, vẫy mưa mà tình mà tự, vẫy mưa mà thương em nhớ ai.
Nhắc đến sen ở Hà Nội người ta sẽ
phải kể ngay đến sen Hồ Tây, hay đầm sen Xuân Đỉnh nằm ở ngõ 408 đường Xuân Đỉnh, phường Xuân Đỉnh, quận
Bắc Từ Liêm, được xem là một trong những chốn sen lâu đời và có diện tích
rộng nhất của thành phố, bởi không có nơi nào trồng được thứ sen đẹp, nhiều
cánh, lâu tàn, hương thơm lâu như sen ở chốn này.
Dẫu vậy thì mỗi khi vào mùa, mỗi khi tháng Sáu,
mỗi khi Hà Nội trở mình thơm tho, lòng tôi lại vụng về những cơn mưa bên những
cánh sen mỏng chen vài bông súng tím ngơ tím ngát ở cái hồ nước chẳng lấy đâu
mà thênh thang Phùng Khoang.
Đời người kể cũng lạ, đôi khi chỉ là một ánh
mắt, một cái nắm tay, thì cơn mưa dẫu có ngang qua đời bạn một lần thôi cũng đủ
để những bong bóng phập phồng một đời, bọt mưa một thời, lòng dạ rối bời. Em về
ngang phố chiều nay, tháng Sáu mưa, tháng Sáu say, tháng Sáu chẳng kịp thề
nguyền. Hà Nội mưa… bay… bay…
Hà Nội mưa, ừ thì mưa, mưa cho lên chưa một vạt
chiều thẫm, mưa cho như xưa một cánh sen hồng, mưa tần ngần dắt phố, vào những
câu chuyện của mình. Mưa ơi còn rơi? Cánh chuồn lạc phố, Hà Nội long lanh…như
màu áo em xanh…
Những cơn mưa trong tôi không ngừng lên khơi,
buông lơi thành phố, chơi vơi thành phố, trầm ngâm thành phố, tháng Sáu về ướt
dầm Hà Nội. Ký ức bừng tỉnh trong mưa, song thưa, sen hồng một đóa, mắt mưa một
thủa, như một con phố dài tự kỷ, tôi đón những ngày mưa về chưa?
Hà Nội cứ thế tôi, Hà Nội cứ thế em, Hà Nội cứ
thế mưa, Hà Nội cứ thế sen, Hà Nội cứ thế những vòm sấu xanh non tháng Sáu.
Tháng Sáu chẳng dành cho những tâm tình vội vã, tháng Sáu chẳng dành cho những
nhớ thương hời hợt. Và Hà Nội cũng thế, chẳng dành cho một tháng Sáu riêng em
riêng tôi. Tháng Sáu, Hà Nội và những cơn mưa dành cho cả bao người.
Chiều
nay, không giống như những buổi chiều xưa, cơn mưa về ngang thành phố biển, tôi
nhớ đến tháng Sáu Hà Thành. Ở một nơi nào, những đóa sen còn hồng lên màu nhớ,
ở một nơi nào đường phố rơi những quả sấu mà tôi cứ ngỡ, thanh xuân. Rồi tự ru
lòng bằng một Khúc mưa của Đỗ Trung Quân:
“Giá trời đừng mưa anh chẳng cần
xuống phố
Hoa cúc vàng nhà ai thả từng chùm
Hoài nhớ áo em vàng…
Tháng sáu…Trời buồn…
Lũ chim sẻ hiên nhà đi mất
Như em…Như em…”
Chiều tĩnh vật Chiều đã ngấm sâu dưới mái Em nghe không chất ngất tiếng hoàng hôn giập vỡ những cánh mây hiền giả những kè đá cam lò...