Monday, December 7, 2020

Văn 5

 

Thời gian

“Phật tại thế thời
Ngã đẳng trần luân
Kim đắc nhơn thân
Phật dĩ diệt hậu”
 Vì nguyện lực Người chôn vùi cát bụi
A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh
Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
Ứng mộng vàng thác chất một lần sanh.
Vào một sớm Người về bên núi tuyết
Đem nguyện lành trải dấu bước nhân gian
Nâng tay nhẹ Lâm-tỳ-ni hoa nở
Từng bước chân lay động cõi ba ngàn. 

Chim vui hót nhạc trời vang trổi khúc
Khắp Nhơn Thiên mở hội đón tin mừng
Ca-tỳ-la trở mình trong hoan lạc
Đón Người về trong niệm khúc ca vang.

Và từ đó Người hoàn thành nguyện lực
Gieo mầm xanh tuệ giác khắp mọi nhà
Nhổ khổ đau ban cho đời an lạc
Để bây giờ còn lại vết, đi xa.

Trăng vẫn hiện bên hồ xưa in dấu
Ghi lại lần tắm gội bến thiên thu
Cảnh còn đấy bên thời gian hoang vắng
Người ra đi vĩnh viễn khói sương mù.
Con lạc bước trầm luân trong đáy mắt
Về nơi đây qua ký ức nhạt nhòa
Con cúi lạy thay vô minh vạn kiếp
Theo vết chân Người để lại luân hồi.
Đếm từng bước nắng nhòa qua mái tóc
Trắng từng giây trong một niệm thiên thu
Trời đất cũ xin về đây chứng giám
Con lòng thành xin gởi lại nghìn sau.
Phổ Đồng
Chiêm bái Lumbini (Nepal 07/03/2008)

 

Kính mừng Vesak

Trang Vesak tứ từ rơi bụi đỏ
sử triết văn đội chữ, gậy đường khuya
đức Phật hiện chân dung sen khiết bạch
giữa ao hồ nhân thế thoảng hương xưa 
thắp vầng trăng em ơi đêm dài tăm tối quá
những cây cầu gỗ mục kiến tri hoang
bên vực thẳm mọng hồng bao quả ngọt
ước mơ xanh còn lắm nghĩa bất toàn!
Thơ mặc áo nhân văn chẳng thần linh, thượng đế
không dung phàm chẳng kiểu cách cao sang
bóng Phật bước đi sáng nay là một làn thanh khí
tự do qua hiên chùa mây trắng lướt thênh thang!
Trang Vesak kinh thư tìm xá-lợi
giữa tro tàn những kiến chấp đảo điên
đức Phật hiện rừng chim đua tiếng hót
mật ngữ giữa lòng lần mối gỡ sầu miên! 
Chuyện kể rằng
em ơi quả địa cầu run rẩy
đỉnh Hy-ma cúi xuống đỡ chân ngài
hạn hán nhân tình mưa sương mát mẻ
sa mạc lòng đời cây lá mọc chen vai!
Xót cát lầm xót thương sinh hoạn nạn
em hãy cùng ta  tát cạn biển điêu linh
phút bất tuyệt trái tim ta rực lửa
thấy phù sinh chi ngại độ phù sinh!
Trang Vesak huy hoàng năm châu bốn bể
Phật về rồi nhen ấm nghĩa yêu thương
ma với quỷ chơi chi trò xương máu
hội nghị vuông tròn ký kết nén tâm hương
Vật chất hư vinh mỏi mề săn đuổi
bạc đầu tuyết sương chân hạnh phúc còn xa
em giản dị  một loài hương hoa cỏ
phụng hiến đời mặc trăm sắc se sua!
Cũng như thế là nụ cười, hơi thở
Phật cho ta sự sống phút giây này
em tỉnh thức cùng nhân gian tỉnh thức
để kính mừng Vesak rạng trời mây!
Mùa hoa Hoàng Yến - 2008Minh Đức Triều Tâm Ảnh

HƯƠNG TRẦM LỠ  CUỘC SAY _ DIỆU TRÂN

 


Tiếng động lạ trong đêm khiến tôi thức giấc. Thật ra, tôi chưa hẳn ngủ. Sau giờ thiền đêm, tôi nằm xuống, gối đầu trên tọa cụ, mơ màng về một cảnh trí nào không rõ rệt. Và chợt nghe tiếng động ngoài vườn, nơi từ phòng ngủ, tôi có thể mở cửa bước ra. Cả hai việc liên đới với nhau: tiếng động và giấc ngủ, tôi đều không thể xác quyết là thực hay mộng. Nhưng đã thức và đã nghe, tôi khoác thêm áo, bước ra vườn sau.
Trăng khuya nõn nà như giải lụa mỏng phủ hờ trên vạn hữu. Trăng vừa đủ để tôi thấy mờ ảo những đóa quỳnh hương trắng muốt, ngào ngạt trong đêm, bụi tre Mạnh Tông xanh mướt, đứng lặng thinh, vững chãi cuối vườn bên hồ sen im lắng với những bông đầu mùa đã vươn lên từ mấy ngày nay, đang chờ tia nắng ấm để hiến tặng hương sắc cho đời. Tôi ngước nhìn bầu trời đầy sao và chợt mường tượng được âm thanh của tiếng động vừa rồi là tiếng vỗ của cánh chim đơn độc. Không phải tiếng vỗ cánh bình thường mà là tiếng vỗ bi thương của tai nạn, của đau đớn, của uất hờn, của những gì ngoài chờ mong, bất toại ý. Tôi đã từng được nghe âm thanh này một lần, ở ngôi nhà cũ, trong khi đang làm vườn. Sau tiếng kêu bi thương, cánh chim lao xuống  góc vườn. Tôi chạy đến. Nó nằm bất động, nhưng còn mở mắt nhìn tôi. Tôi bước rất chậm đến gần nó, muốn ôm nó lên, muốn truyền tới nó chút  ân cần, yêu  thương cuối cùng nhưng nó lại dùng tàn lực cho cử chỉ muốn thoát chạy. Tôi đành ngồi xuống, và rất thận trọng, lùi nhẹ, khuất sau bụi hồng. Tôi nghĩ, ít nhất, không làm gì được cho nó thì cũng đừng để nó phải sợ hãi. Nhưng ngồi sau bụi hồng, tôi ngạc nhiên thấy nước mắt mình lã chã tuôn rơi. Một con di điểu sắp được hóa kiếp mà cũng khiến tôi mềm lòng đến thế này thì tôi lấy sức đâu mà chống chỏi với muôn vàn hệ lụy trần gian! Điều đó ám ảnh tôi rất lâu, rồi tôi mới hiểu ra rằng không phải tôi chỉ bi lụy vì phải chứng kiến con chim hóa kiếp, mà tự thẳm sâu đáy lòng, chính là tôi phẫn nộ với mình trong ý nghĩ, nhìn thấy những đau thương mà bất lực, mà bó tay, mà thụ động, nhu nhược chờ sự tàn hại tất đến trong hiện hữu vô dụng. Tôi nhận ra điều này do tình cờ liên tưởng đến bài pháp khi xưa Đức Phật đã thuyết cho nhà vua Pasenadi nghe về bốn ngọn núi bao quanh. Đức Phật hỏi vua “nếu trong cùng một lúc, quân lính ở bốn cửa thành đông, tây, nam, bắc cùng chạy về cấp báo rằng có bốn ngọn núi vĩ đại từ bốn phía đang lừng lững tiến về kinh đô và càn quét mọi thứ khi núi đi qua. Nghe tin dữ đó thì Bệ Hạ sẽ làm gì?” Sau một thoáng ngỡ ngàng, nhà vua thành thật thưa rằng “Con sẽ sống thật xứng đáng những thời gian cuối ngắn ngủi đó.” Nghe thế, Đức Phật mới mỉm cười từ ái mà bảo rằng “Bốn ngọn núi đó chính là sinh, lão, bệnh, tử đấy. Tuy mọi người đều biết không ai qua khỏi cái chết nhưng vẫn không ngừng tranh giành, thù hận, dẫm đạp lên nhau mà phải đợi khi cái chết đến kề mới tỉnh ngộ lẽ vô thường.”
Chính bài pháp ngắn này đã là tha lực từng giúp tôi thêm ý chí để hòa đồng, chia xẻ với tha nhân trong đời sống vốn quá nhiều phức tạp này. CHO đã khó, NHẬN còn khó hơn nếu ta không hiểu được giá trị của cho và nhận trong Lục Độ Ba La Mật thì chúng ta sẽ chẳng thể hiện được từ ái với nhau trong quãng đời vô thường ngắn ngủi.
Bên hồ sen, đêm thơm ngát trăng khuya, tĩnh lặng và hiền hòa, không có dấu hiệu gì của bất trắc, khiến tôi nghi ngờ tiếng động lạ tôi tưởng vừa nghe thấy là không thật. Tiếng vỗ của cánh chim kêu thương cũng không thật. Đó chỉ là những âm thanh ẩn dấu trong lòng, phút nào nhìn suốt lòng mình nhất thì sẽ nghe thấy. Có lẽ ai cũng có cho mình một thế giới vô hình riêng tư đó. Chỉ nhận ra hay không mà thôi.
Tôi đưa tay, khuấy nhẹ mặt nước hồ. Nước sóng sánh lung linh và bóng trăng vỡ vụn. Tôi đã ngu si, tiếc nuối bóng trăng tan mà quên rằng vành trăng trên cao kia mới thực là trăng, và trăng ấy còn nguyên vẹn. Ý tưởng này như lằn chớp, không hề báo hiệu, mà đưa tôi về giữa  khung trời thơ diễm tuyệt, hùng tráng, nơi không gian mênh mông bất tận ẩn dụ qua hình hài khắc khổ của vị cao tăng đang được bao tấm lòng Phật tử muôn phương hướng về. Toàn bài thơ “Hạ Sơn” của Thượng tọa Tuệ Sỹ mà tôi vừa đọc trước khi tọa thiền, chợt hiện lên rõ rệt từng giòng, vằng vặc như trăng:
Ngày mai sư xuống núi
Áo mỏng sờn đôi vai
Chuỗi hạt mòn năm tháng
Hương trầm lỡ cuộc say
Bình minh sư xuống núi
Tóc trắng hờn sinh nhai
Phương đông mặt trời đỏ
Mùa hạ không mây bay
Ngày mai sư xuống núi
Phố thị bước đường cùng
Sư ho trong bóng tối
Điện Phật trầm mông lung
Bình minh sư xuống núi
Khóe mắt còn rưng rưng
Vì sư yêu bóng tối
Ác mộng giữa đường rừng
Khi đọc bài này, tôi đã không hiểu, vì khựng lại ở câu “Hương trầm lỡ cuộc say”. Hương trầm, có thể tượng trưng Đạo Phật, cửa Phật, đời tu sỹ, ý nguyện xuất trần ..v…v… tùy theo ý tưởng mà tác giả muốn chuyên chở. Nhưng “Lỡ cuộc say” thì tôi không rõ lắm. Tại sao lại “lỡ”? Tại sao lại “cuộc say”? Ngài muốn gửi gấm gì qua câu thơ này?
Trên một nghĩa nào đó, thơ có phải là thiền không?
Cõi thiền vốn im tiếng.
Cõi thơ vốn ẩn lời.

Nếu nâng thơ lên để chỉ cảm nhận cái đẹp mênh mang của suối nguồn. Nếu ngồi xuống để chỉ an nhiên đi vào tịnh mặc của Chân Như thì thiền sẽ mở cửa, thơ sẽ bước vào. Hồ điệp hay Trang Tử? Thi sĩ hay Thiền Sư? Khởi niệm như thế đã mặc nhiên hiện ra ngã rẽ của dị biệt và đồng nhất mất rồi! Thi sĩ sống với thơ đã là chọn sự ngăn cách với phiền não hẹp hòi của thường tình thế gian; Thi-Sĩ-Thiền-Sư còn phải dũng mãnh hơn nữa khi quyết tâm ly gia, khoác áo nâu sồng xuất thế gian mà không rời thế gian pháp, mang đại nguyện, trên phụng sự đạo pháp, dưới cứu khổ ta-bà.

Tận dụng được lòng hiến dâng giữa đạo và đời là sự diệu kỳ cao cả, thế nhân chỉ có thể nhìn ra nét mầu nhiệm viên dung đó khi tâm thoát khỏi vòng biệt phân hý luận. Cám ơn đêm và trăng. Đêm thơm và trăng lạnh đang giúp tôi nhẹ nhàng mở từng cánh cửa vô hình, cho tôi nghe được tiếng vỗ bi thương của cánh chim đơn độc đêm nay là những lời thơ này đây, thông điệp của Thi-Sĩ-Thiền-Sư Tuệ Sỹ gửi cho chúng ta về pháp nạn quê nhà. Ngài có muốn hạ sơn đâu nhưng vì “Hương trầm lỡ cuộc say” mà phải xuống núi cứu đời. Ôi, chữ “lỡ” của Thiền Sư đã nói lên trọn vẹn Tâm Bồ Đề từ bi vô lượng. Thế nhân dùng chữ “lỡ” thường để tỏ lòng hối hận về điều lẽ ra không nên làm; nhưng Thiền Sư “lỡ” phát đại nguyện lại dấn thân vào cõi ác ngũ trược, quyết tự độ rồi độ tha thì dù khổ lụy thế nào cũng không thối chuyển. Và ở phút diệu kỳ khi Thiền Sư “gặp” Thi Sĩ mới thi vị hóa đến mức tuyệt hảo giữa “lỡ cuộc say” miệt mài của thế nhân với đại nguyện tải đạo cứu đời của người con Phật. Có lẽ xưa, Trang Tử hóa bướm cũng ở phút giây này mà thôi.
Cánh cửa mở tới đây tôi mới thấy được bước đi thong dong mà dũng mãnh của ngài. Với thanh Gươm Bát Nhã, Thiền Sư gửi cho chúng ta một thông điệp Vô Úy giữa tang thương cùng cực, qua những giòng thơ tiếp:   
“Bình minh sư xuống núi
Tóc trắng hờn sinh nhai
Phương đông mặt trời đỏ
Mùa hạ không mây bay
Ngày mai sư xuống núi
Phố thị bước đường cùng
Sư ho trong bóng tối
Điện Phật trầm mông lung”
Ngài dùng hình ảnh nhà sư trong lao tù để đưa ra toàn bộ thảm trạng của Quê Hương Dân Tộc và Đạo Pháp đang bị giới lãnh đạo thô bạo, vô minh nhận chìm xuống vực sâu  khổ nhục, đói nghèo, tù đầy, tăm tối. Trong vũng lầy oan nghiệt đó, những trưởng tử Như-Lai đã nhỏ lệ vì yêu thương chúng sinh mà không tìm sự giải thoát riêng mình. Các ngài đã xuống núi, thể hiện tinh thần Bi Trí Dũng giữa rừng già đầy thú dữ hiểm độc hung tàn, nên trăng khuya cũng nhạt nhòa với đoạn thơ cuối:
Bình minh sư xuống núi
Khóe mắt còn rưng rưng
Vì sư yêu bóng tối
Ác mộng giữa đường rừng.
Trên lối trúc về phòng, tôi nghe được trong thầm lặng câu chú Bát Nhã “ Gate. Gate. Paragate. Parasamgate. Bodhi. Svaha.”

Diệu Trân

Buông thả

 
Mặt trời thôi ngủ mùa đông
thì em thôi ngủ giữa vùng lạnh sương.
Nắng lên tỏa ấm thiền đường
thì muôn hoa nở giữa vườn quê xưa.
 
Mấy con bướm nhỏ bay đùa
tung tăng cho thỏa mấy mùa ngủ quên.
Bây giờ mặt nhật đã lên
mấy con chim nhỏ ví von trên cành.
 
Tóc sương người hóa thành xanh
Áo sương thôi bạc tinh anh nụ cười.
Thơ say không để cho đời
thơ say là để cho người say thơ.
 
Từ xưa cho đến bây giờ
dễ ai học hết chữ ngờ thế gian.
Biết ai kẻ lỡ cung đàn
biết ai khóc lỡ cười khan kiếp này.
 
Mấy người xưa mấy người nay
không say men rượu cũng say men tình.
Lợi danh là cõi lênh đênh
lợi danh là cõi đưa mình đi hoang.
 
Bây giờ mặt nhật mở toang
người say tỉnh giấc thì quay lưng về.
Men say không trói tình quê
tình men buông hả bay về vô biên.
Tuệ Nguyên

 

Hạt bụi lênh đênh

Ta từ trong cõi vô sinh,
vận hành đại nguyện đăng trình thế gian.
 
Thời gian chảy qua suối tóc
ta gối đầu lên hư không
ký ức gãy vụn quá khứ
tương lai xe cát dã tràng

 

dấu in xóa mờ dĩ vãng
cánh nhạn đi qua hư không
bầu trời chiều không gian tím
rớt vào đáy mắt ai trông

 

hạt bụi bay bay lãng đãng
vướng gót hài phủi không ra
ai biết mình còn hay mất
nghìn năm trước nghìn năm sau?

 

nỗi vui nỗi buồn đan kín
chảy xuống giọt thời gian
hạt muối ngâm liền vết sẹo
biển trầm giọt lệ rơi rơi

 

cao sơn mây chiều vần vũ
lệ nhòa hơi thở bay xa
dấu rêu mờ xanh phiến đá  
rừng già lá đỏ bay sang

 

đêm nao trăng về mang gió
áo mẹ hạt bụi bay vương
đời ta nơi này bến đỗ
nối dài hạt bụi mai sau

 

trăng nghiêng sương gầy rớt hạt
gió từ vô thỉ đến vô chung
mây trắng chiều nay đụn kín
bầu trời xanh thẳm về đâu?

 

nỗi buồn ra đi theo gió
niềm vui ký ức lấp đầy
hiện hữu phơi bày tất cả
cho hạt bụi mãi xa bay.
Phổ Đồng

 

No comments:

Post a Comment

Huy Tưởng

  Chiều tĩnh vật   Chiều đã ngấm sâu dưới mái Em nghe không chất ngất tiếng hoàng hôn giập vỡ những cánh mây hiền giả những kè đá cam lò...