TỪ
VĂN ÁI
"...
Từ cái dấu chấm định mệnh của thời gian ấy, dấu chấm ở ngay
khoảng giữa đôi mắt anh, tôi đã nhìn thấy dưới những nếp gấp bình dị của thơ
anh, của con người anh, và có lẽ của cả đời sống anh nữa; dưới những tình cảm
bình dị ấy, một bầu trời trầm mặc bao la của vĩnh cửu. Nhà thơ vẫn yêu loài người
dù sống giữa hận thù và gian dối; vẫn yêu mặt đất dù sống trong sự đày đọa của
áo cơm. Tình yêu và khác vọng vĩnh cửu, tâm tình muôn thuở của thơ là thế."
Đề
tựa "Nhã thi" - 1975
TỪ
VĂN ÁI
ĐĂNG ĐẠO
Đọc
DƯỚI BÓNG NGẬM NGÙI của Vũ Phan Long
Tôi
vừa nhận được tập thơ Dưới Bóng Ngậm Ngùi mới xuất bản của thi sỹ Vũ Phan Long
gởi tặng.
Tôi vô cùng trân trọng và xin chân thành cảm ơn tác giả.
Dưới Bóng Ngậm Ngùi là tập thơ thứ nhì của Vũ Phan Long. Tập
thơ thứ nhất - tập Đìu Hiu - là những bước ngập ngừng của một người mới dấn bước
trên đường thơ muôn dặm. Tập thứ nhì - Dưới Bóng Ngậm Ngùi - là những bước đi
đã vững của đôi chân đang hăng hái bước nhanh, hầu mong chóng đến nơi mình muốn
đến.Tôi nói "hăng hái bước nhanh" là vì từ Đìu Hiu đến Dưới Bóng Ngậm
Ngùi, họ Vũ đã cố gắng đi một quãng đường khá dài, và đã hái được nhiều kết quả
tốt đẹp:
DƯỚI
BÓNG U MINH
Cành rơi nắng
vàng tắt thở
Trần gian gò
đống xanh xao
Hư vô giật
mình mắt mở
Trong sương
gà gáy quê nào
Bàng hoàng
sông ngưng tiếng hát
Cô đơn xuôi một
dòng sầu
Đôi bờ cỏ
thơm lạnh ngát
Về đâu viễn xứ
trăng thâu
Tôi đứng bên
cầu lá rũ
Thân trần giọt
máu sơ sinh
Tay run níu hồn
vãng sự
Khóc cười rợn
bóng u minh.
Có thể nói đây là một bài tiêu biểu của toàn tập thơ. Nó đã
cho chúng ta thấy tâm trạng và nghệ thuật của tác giả. Tác giả đương ở trong
tình trạng "thấy núi không phải là núi, nước không phải là nước" của
một người đi tìm Đạo cho Đời sống và cho Thơ. Lòng băn khoăn bồi hồi, nghi ngờ
e ngại. Tâm trạng bất an bất định ấy còn là biểu hiệu trong nhiều bài thơ khác.
Như bài sau đây là một:
TĨNH
DẠ
Ngày trôi
Hồng rụng
Tím lá mù hoa
Tro tàn ải lạnh
Ngập ngừng
sương sa
Không gian lặng
lẽ
Dựng cõi vô
thường
Núi se tóc
tuyết
Đất dậy trùng
dương
Bóng mây xa
triệng
Phương trời cố
hương
Luân hồi
chuông động
Chim kêu đoạn
trường
Ơi ơi tĩnh dạ
Nghi ngút sầu
ca
Đời tối đơm
hoa
Rạng đông nỗi
chết
Dòng sông chảy
xiết
Thân phận
hình hài
Gửi gắm tàn
phai
Ai nữa còn ai
!
Người đợi gì
ai ?
Trong trăng
ngươi ngắm
Trong gió
ngươi cười
Cô liêu hạt
móc
Ngươi nằm thảnh
thơi.
Tâm trạng của con người đi tìm chân lý ấy, phản ảnh vào trong
thơ dưới trăm màu ngàn sắc và gây trong lòng người đọc một nỗi buồn khi thì dịu
dàng khi thì ray rức, khi thì quạnh quẽ cô liêu, khi thì mơ màng bát ngát.
Được thế là nhờ kỹ thuật của họ Vũ đã lên đến trình độ cao, đến
trình độ đủ phục vụ hữu hiệu cho tư tưởng. Xem như hai bài trên, lời gọn nhưng
êm và tiết điệu uyển chuyển theo trào lòng lên xuống. Ngòi bút phải luyện lắm mới
có thể điều khiển thể lục ngôn và tứ ngôn, là hai thể thơ dễ đi đến chỗ bằng phẳng,
nhất là thể thơ lục ngôn đã bị sa thải hàng bốn năm thế kỷ nay. Thế mà với Vũ
Phan Long, thể lục ngôn được hồi sinh. Nó nói lên sự ngột ngạt của tâm hồn tác
giả, và khiến cho chúng ta cũng cảm thấy ngột ngạt khi đọc bài Dưới Bóng U
Minh. Còn thể tứ ngôn trong bài Tĩnh Dạ, tác giả đã hòa hợp thể tứ ngôn của
Kinh Thi và tứ ngôn của Việt Nam một cách khéo léo. Bài thơ là một dòng suối chảy
từ đầu non đến đồng lúa xanh. Từ câu đầu đến câu "Chim kêu đoạn trường"
dòng suối chảy róc rách theo nhịp điệu ôn hòa của Kinh Thi. Một nỗi buồn dìu dịu
trôi lững lờ theo dòng tư tưởng của tác giả. Nỗi buồn đương trôi xuôi thì chợt
qua một khúc quanh có hơi gấp, sóng sầu liền phát sanh và dòng tư tưởng bị thúc
đẩy phải chảy mạnh theo thể thơ Việt Nam:
Ơi ơi tĩnh dạ
Nghi ngút sầu
ca
Đời tối đơm
hoa
Rạng đông nỗi
chết
Dòng sông chảy
xiết
Thân phận
hình hài
Gửi gắm tàn
phai...
Qua khỏi khúc quanh, dòng tư tưởng giảm bớt tốc độ và theo điệu
Kinh Thi từ từ chảy vào quãng xanh biếc mênh mông...
Thể thơ tứ ngôn và lục ngôn là hai thể thơ xưa nhất của Trung
Hoa và Việt Nam. Chúng thuộc về thể thơ cũ. Nhưng thời hậu chiến, cũng như thời
tiền chiến, không một nhà thơ cũ nào có giai tác truyền tụng về hai thể này.
Trái lại, trong các nhà Thơ mới trước kia và hiện nay, có nhiều bài tứ ngôn và
lục ngôn thành công. Hai bài của Vũ Phan Long trên là bằng chứng.
Một hôm bàn về thơ cũ, thơ mới, thi sĩ Quách Tấn nói:
- Thơ mới chẳng những không làm chết thơ cũ mà còn làm sống lại
nhiều cái mà các nhà thơ cũ cố ý hay sơ ý đã bỏ ngắt ngoải trong bao thế kỷ
nay.
Rõ là lời nói của người tri kiến.
Ngoài thể tứ ngôn và lục ngôn, Vũ Phan Long rất sở trường về
thể lục bát.
Nói đúng ra, thể lục bát mới là thể chính trong tập Dưới Bóng
Ngậm Ngùi. Vì thơ trong tập phần nhiều theo thể này và những bài thơ theo thể
này lại có nhiều bài hay.
CÒN
AI ĐỐT LỬA BÊN ĐỜI
Nhìn chi dưới
bóng tiêu điều
Mùa trôi tấm
tức bên triều tháng năm
Mù sương đất
trích căm căm
Mưa ! mưa ! cố
quận giọt tầm tã rơi
Còn ai đốt lửa
bên đời
Cho tôi gửi gắm
một lời cuối xa...
NHÁNH
GÃY
Gió xua bóng
nắng về ngàn
Tổ chiều con
nhện giăng tràn mối tơ
Run run nhánh
gãy mơ hồ
Bước chân
thiên cổ đáy mồ âm vang
v...v... Nhiều câu tuyệt diệu! nhiều hình ảnh tân kỳ!
Những vần thơ như thế không phải dễ tìm thấy hằng ngày.
Nếu đem so sánh với câu thơ trong tập Đìu Hiu:
Cánh ong trên
lá rập rình
Môi em mật ngọt
nụ tình nở hoa
mà thi sĩ Quách Tấn đã tán thưởng, thì những câu trong Dưới Bóng Ngậm Ngùi có
hơn chứ không thua. Không thua về mặt kỹ thuật, có hơn về mặt phong phú tế nhị
của nội dung.
Cũng không kém hai bài trên về cách điệu cũng như về lý thú,
bài:
VUN
NẤM MỒ XANH
Ô kìa !
Nắng tắt
ngang sông
Bờ thu gió nổi
Mờ rung cây
cành
Nao nao sóng
lá khuynh thành
Dưới sương
vun nấm mồ xanh
Má hường.
Tại sao tác giả không sắp đặt theo thể lục bát thông thường,
mà lại ngắt câu xuống hàng như thế? Lập dị chăng? không phải. Toàn bài là một
cây trúc, mà mỗi đoạn ngắt là một đốt bị cưa rời, ở trong lòng có một sợi dây
vô hình xâu lại. Nắm sợi dây giơ lên thì là một cây trúc nguyên vẹn, nhưng nắm
xem từng đốt thì mỗi đốt có một tư thế một công dụng riêng biệt. Ngắt ra như thế
là tác giả dụng ý làm cho độc giả lưu tâm đến từng đoạn một, để rồi chắp đoạn lại
cho dễ thấu suốt những ý nghĩa u ẩn trong toàn thiện, những ý nghĩa thường nằm ở
hàng chữ, ở cạnh lời văn.
Trong tập còn nhiều thể khác, còn nhiều cái hay cái khéo
khác. Nhưng ở đây tôi chỉ nêu ra những đặc đỉểm nổi bật.
Trong tập cũng có những khuyết điểm, mà bất kỳ tập thơ nào từ
xưa đến nay vẫn không sao tránh được. Song bài này chỉ là một bài giới thiệu,
hoặc chỉ là những lời nhận định khiêm tốn - chớ không phải là một bài phê bình,
mong đưa ra những gì hay đẹp của tác phẩm để bạn đọc thưởng lãm.
Mỗi thi nhân là một thế giới, mỗi tập thơ là một vườn hoa. Muốn
biết rõ thế giới ấy, vườn hoa ấy, người đọc phải đi sâu vào, nhìn kỹ vào, chứ
những lời giới thiệu đơn sơ hoặc một bài phê bình sâu sắc đi nữa cũng chỉ là
"ngón tay trỏ mặt trăng" mà thôi.
ĐĂNG
ĐẠO
23
- 3 - 1972
CHÂU
HẢI KỲ
Đọc
thi phẩm Đìu Hiu của Vũ Phan Long
Dựng Đất, tập san Văn học nghệ thuật, số 2 tháng 2, 1970
Một
tác giả đã xuất bản 2 tập thơ, một ngày nọ tỏ thật với tôi:
- Tôi biết Thơ là loại bán không chạy và thường bị thiên hạ rẻ
rúng. Thái độ dửng dưng gần như vô tình mà tàn nhẫn ấy đôi khi làm cho tôi chán
nản. Tôi mong mỏi sao cho tác phẩm được đọc đến, dù khen hay chê, cũng là điều
sung sướng an ủi đối với tôi rồi.
Lời tỏ bày thật chí tình, chứa chan một nỗi thiết tha chân thật.
Con người tình cảm rất sợ cô đơn. Mà ở đời kẻ nào tình cảm rạt
rào hơn thi nhân? Một thi phẩm in ra cốt để truyền thông tư tưởng giải tỏ một tấm
lòng, phơi bày một nỗi niềm, ẩn ức, xúc động của con tim... lại nằm im lìm
trong hàng sách trước dòng tháng năm hờ hững lặng lẽ trôi qua... khiến người viết
thêm ê chề, tái tê và càng thấy mình thêm cô độc, quạnh hiu, lạc lõng.
Cảm thông với nỗi lòng của bao kẻ "tri âm của vần điệu",
lại vốn yêu thơ và cảm tình với những kẻ đã thay mình, trong vai trò chứng nhân
thời đại, đem những xúc động rung cảm của tâm hồn mình trang trải lên mặt giấy,
tôi đọc bất kỳ cuốn thơ nào tôi gặp.
Do đó mà lần này tôi đọc thi phẩm "Đìu Hiu" của Vũ
Phan Long. Đọc thi phẩm này vì một nguyên nhân: Một hôm sang thăm thi sĩ Quách
Tấn, tác giả "Mộng Ngân Sơn" đọc cho tôi nghe hai câu thơ:
Cánh ong trên
lá rập rình
Môi em mật ngọt
nụ tình nở hoa
Thật là đẹp, đẹp từ hình ảnh đến nhạc điệu phong phú, đẹp từ
cảnh đến tình (những câu thơ đủ cả cảnh tình, xinh như một bức tranh và man mác
một mối tình - hồn của cảnh - ai bảo là không tuyệt diệu?), mà ý thì lại rất
hàm súc, nghe xong hồi lâu mà đầu óc tôi lâng lâng như còn ở trong cảnh mộng mơ
ngây ngất...
Rồi tác giả "Nước non Bình Định" giới thiệu:
- Đấy là hai câu thơ trong thi tập "Đìu Hiu" sẽ xuất
bản của một thanh niên Bình Định có nhiều triển vọng nối gót Hàn Mặc Tử, Chế
Lan Viên, Yến Lan, Lam Giang, Võ Phiến... góp phần trang điểm nước non Bình Định...
Tôi để bụng, mong ngóng được thưởng thức thi phẩm kia. Và tôi
mãn nguyện. Tác giả "Nước non Bình Định" vừa trao cho tôi một thi phẩm
gởi tặng. Nghĩ rằng tác giả Vũ Phan Long cũng cùng một tâm trạng như nhà thơ
tôi nói ở đầu bài, nghĩa là mong mỏi ý kiến, dù ca tụng hay chỉ trích của bạn đọc,
nên tôi không ngần ngại viết lên một ít điều nhận xét sau đây gọi là tỏ mối
"cảm tình" với người bạn trẻ chưa quen.
Thưởng thức thơ, mỗi người quan niệm một khác. Riêng tôi, tôi
chú ý trước tiên đến nhạc điệu. Cầm một bài thơ, tôi chưa tìm hiểu nội dung mà
bắt đầu bằng thưởng thức cái âm điệu du dương của nó đã. Bài thơ có đem lại cho
tôi cái vui thú hay sự hồi hộp buồn bã nào mà không cần phân tích không? Nó có
tạo cho tôi những cảm xúc tươi mát, gợi cho tôi những kỷ niệm, ru tôi vào cái
thế giới mông lung, u uẩn? Chính sau khi tâm hồn mãn nguyện vì cái âm điệu dạt
dào của nó rồi, tôi mới đi vào phần ý thơ.
Về phương diện này, nói về toàn thể, thi phẩm "Đìu
Hiu" chưa gây được cái cảm giác đìu hiu cho người đọc, mà đúng ra nhà thơ
phải lưu ý trước tiên. Âm điệu giúp cho việc diễn tả ý thơ, gây cái không khí
"đìu hiu" trợ lực cho công việc làm nổi bật trọng tâm. Có lẽ, trong
khi diễn tả những rung động của lòng mình, tác giả chỉ chú trọng về phần nội
dung mà quên phần âm thanh tiết điệu cũng nên.
Sang phần "cảnh" và "tình" nghĩa là phần
nội dung, tôi muốn mượn lời của thi sĩ Lam Giang trong đoạn kết thúc bài tựa tập
"Đìu Hiu" để nói lên nhận xét của mình: "Nguồn thơ của Vũ Phan
Long như một dòng sông vừa mới khởi hành ở đoạn thượng lưu. Từ đó, băng qua nhiều
núi non, cao nguyên để xuông trung châu, tiến về trùng dương, con đường còn xa
vời, hướng tiến còn bâng khuâng, phụ lưu còn đợi chờ nhiều thủy thế hợp
lưu...". Vì cách dụng ngữ còn phải cần nhiều thời gian trau luyện, cho nên
cảnh và tình chưa được diễn tả khéo léo, làm cho ý thơ ở đây dù có dồi dào sâu
sắc đến đâu cũng giảm mấy phần thi vị.
Ngoài khiếm khuyết trên về khả năng kỹ thuật dụng từ - điều tất
nhiên phải có của một nhà thơ trẻ - tôi muốn nói thêm một nhận xét: Tác giả là
một thanh niên, lớn lên trong thảm cảnh đất nước đổ vỡ, không biết bao nhiêu là
biến cố xảy ra dồn dập, vậy mà ảnh hưởng thời cuộc rất mong manh ở tâm hồn họ
Vũ. Trong tác phẩm, người đọc không tìm thấy phản ảnh được chút khía cạnh tình
cảm nào của mình để tỏ rằng tác giả ít ra cũng đã hòa đồng vào cái chung của
dân tộc, chẳng hạn hoặc nói lên cái ý thức về nhiệm vụ hoặc giải tỏ một nỗi
lòng, một ước vọng tha thiết trước những đổi thay đang diễn biến?... mà có thể
nói, người đọc chỉ gặp đơn độc có mỗi "cá nhân người thơ" qua những
dòng tư tưởng yếm thế của một thanh niên đang bơ vơ lạc lõng giữa dòng đời!
Phần trên, tôi nói đến khuyết điểm. Nhưng qua thi phẩm
"Đìu Hiu", tác giả không phải không đạt được sự thành công. Lời tựa của
thi sĩ Lam Giang và lời bạt của thi sĩ Quách Tấn đủ nói lên điều đó, phụ họa
cũng là thừa. Huống chi một đời sáng tác chỉ cần viết nên được đôi bài thơ kiệt
tác, cũng đủ làm cho nhà thơ nổi danh rồi. Thi sĩ Quách Tấn chẳng "rung
đùi cười tích tác" vì những câu thơ hay trong "Đìu Hiu" đó sao!
Và kết thúc bài này, tôi nhận rằng, về nghệ thuật, Vũ Phan Long cho chúng ta
nhiều hứa hẹn và nếu Thơ là một phương diện của "cuộc sống" thì thi
phẩm "Đìu Hiu" đã mang lại cho chúng ta - những người đọc - một dấu
hiệu tốt đẹp.
CHÂU
HẢI KỲ
Huỳnh
Hữu Ký
Quảng
Ngãi, 11 / 5 / 1981
Anh Vũ Phan Long - Thi sĩ của quê hương Bình Định kính mến.
Nhiều
lần tôi định viết thư thăm Anh, nhưng cứ loay hoay tìm một loại giấy tốt không
có. Hỏi mua các quán ở đây cũng hết. Tôi biết anh rất cẩn thận và kén về hình
thức thẩm mỹ. Viết bằng loại giấy rơm này, thật tình mà nói, nếu tôi là người
được nhận thư, chắc cũng không ưng ý lắm. Điều đó rất mong Anh thông cảm cho và
xin Anh hãy đón nhận ở tôi một tấm lòng kính mến đối với Anh. Tôi mong rằng lá
thư này đến với Anh vào buổi chiều và được anh đọc vào lúc tâm hồn sảng khoái
nhất.
Tôi
chợt nhớ đến câu thơ Anh:
"Đi xuống phố chợt nghe mình mất ví"
Khi
tôi cùng một người bạn dạo phố Quảng Ngãi trong buổi chiều mùa hạ. Tôi bị trẻ
nhỏ lấy mất chiếc ví, tôi không giận chúng, chỉ thấy buồn cười vì sự trùng hợp
có lôgich vô cùng với câu thơ của Anh. Trong ví tôi không có giấy tờ gì quan trọng,
chỉ có ít tiền lẻ; và bổng nhiên tôi nhớ đến Anh, đến thơ anh quá đỗi:
"Xin thâm tạ những phút giờ ngẫu nhĩ
Vui ngẫu nhiên và giận rất tình cờ"
Nghe
tôi đọc mấy câu thơ của Anh, bạn tôi liền hỏi:
-
Thơ của ai vậy?
Tôi
hào hứng trả lời:
-
Thơ của một nhà thơ Bình Định đấy! Cậu thấy thế nào? Có hay không?
-
Hay lắm chứ!
Bạn
tôi vốn là người có tâm hồn dễ rung động với thi ca, anh ấy có những nhận xét
thật đơn giản mà thấm thía:
-
Những thi sĩ sao họ có những cái nhìn rất là bao la. Cái nhìn thiên phú cho nên
sự việc bình thường mà họ vẫn có những vần thơ làm người đọc phải xúc động mãnh
liệt.
Tôi
cười xòa không nói. Lòng tôi rộn lên xôn xao một nỗi tự hào vô tận về Anh, về
thơ Anh... Anh nói rất đúng Anh Long ạ! Một tác phẩm văn học tuyệt vời, nó sẽ
vượt qua giới tuyến của quốc gia, vượt qua giới hạn của giai cấp đến với tất cả
lòng người và sống mãi trong tâm hồn họ.
Mai sau dù có bao giờ!
Biết
đâu những trăm năm sau người đời sẽ lục lại đống sách bảo tàng của thế kỷ 20 để
nghiên cứu về một thời lịch sử nền văn học Việt Nam dưới lớp bụi thời gian phủ
lên, người ta gạt đi và trân trọng đọc lại thi phẩm của họ Vũ... thấy hiện lên
long lanh sáng chói trong trời thơ Việt Nam? Biết đâu họ sẽ ước mong Anh còn sống
để giải thích cho họ hiểu vì sao thời 1970, 1971, 1972 gì đó quá xa cách với thế
hệ họ sống mà Anh đã viết đúng với những suy tư của họ ở trong thế kỷ 21, 22
này. Còn gì sung sướng hơn chính tác phẩm của mình tạc lại chân dung mình để
cho muôn dời sau chiêm ngưỡng hả Anh Long. Họ sẽ "Đốt lò hương ấy so tơ
phím này" ... họ sẽ tìm đến Anh như tìm đến "Hớp nước đầu đời"...
...
Đi dạo mát, bạn tôi còn tò mò hỏi nhiều về Anh lắm: Thi sĩ đó là ai? Tác phẩm
nào của họ nổi tiếng nhất? Cậu có thể đọc và chép cho mình một số bài hay nhất
của họ không?.v...v...
Bỡi
không có thời gian và khả năng để phân tích cho bạn hiểu, tôi chỉ mỉm cười làm
thinh. Hơn nữa tôi chỉ có thể đọc cho bạn tôi nghe một vài bài chứ nào tôi có ý
dám chép. Không phải tôi không có ý truyền bá thơ Anh, nhưng tôi ngại vì tôi
chưa được sự đồng ý của tác giả. Tự nhiên tôi ao ước sao có một ngày nào đó,
Anh sẽ cho ra mắt bạn đọc xa gần - trong đó có bạn tôi - những bài thơ mới, những
tác phẩm mới...
...
Anh Long, tôi nhớ có người đã nói: Ở đâu có cuộc sống là ở đấy có thơ. Lẽ nào
cuộc sống quanh ta thật đẹp, thật hạnh phúc mà ta không có thơ sao? Có phải
chăng điều băn khoăn về kế mưu sinh cho gia đình đã đóng cửa thơ Anh lại? Nếu
đúng vậy thì tôi rất mừng, vì một ngày không xa cuộc sống của ta sẽ bớt chật vật,
cánh thơ của Anh sẽ thoát khỏi căn phòng đóng kín, bay lượn trăm vòng trên Tổ
quốc thân yêu... Thế mà lòng tôi vẫn cứ day dứt ngờ ngợ không biết cái lẽ đóng
kín nguồn thơ của Anh có phải vì kế mưu sinh là lý do chính đáng chăng? hay là
vì một cái gì sâu xa hơn nữa?... Hãy tin, hãy yêu Anh Long ạ! Độc lập - Tự do
này vĩnh viễn của ta... dẫu hôm nay ta còn thiếu gạo và hoa...
Tôi
rất mừng khi nghe tin Anh được Ty Văn hóa Thông tin mời dạy ở Trường Âm nhạc
chuyên nghiệp Trung cấp tỉnh Nghĩa Bình. Tôi lại nhớ đến hai câu thơ mà Anh đã
đọc cho tôi nghe:
"Nỗi sầu như tóc bạc
Cắt mãi cứ dài ra."
Không!
Anh không phải "sầu", tôi biết Anh không như vậy, vì tóc anh còn rất
xanh. Và cũng chẳng có chuyện "Kháng chiến lại thừa ta"...
Mãi
bàn về thơ, về Anh mà tôi quên mất tôi. Tôi là ai? Chắc anh đã hiểu rồi, và có
ngạc nhiên? Nhưng tôi không ngại điều đó, vã lại nếu bức thư này không đến tay
Anh thì tôi vẫn hiểu rõ rằng tình kính mến chân thành, những tâm hồn đồng điệu
vẫn thường gặp nhau. Ừ nhỉ, xưa tôi nhìn Anh với đôi mắt công an, Anh nhìn tôi
với đôi mắt ngỡ ngàng, thì hôm nay giữa chúng ta không còn sự ngăn cách đó nữa
mà đã chứa chan tình người, tình quê. Tôi thích vô cùng bài "Hòa âm cố quận"
ở trong tập thơ thứ năm của Anh.
"Tôi yêu đời, hạt bụi cũng yêu luôn"
câu
thơ thật dễ thương, thật đôn hậu mặn mà quá mức.
Viết
thư cho anh-tôi gọi bằng anh-vì tôi có thói quen dùng chữ "Anh" viết
hoa để tôn người hơn tôi về tài năng, và lời thư cứ tâm tình lai láng mê si như
viết cho tình nhân vậy. Không biết Anh có phật lòng? Xin Anh hãy thông cảm lòng
tôi qua những ngôn từ non nớt vụng về của tôi nhé. Tôi đâu dám "múa rìu
qua mắt thợ"!
Xin cảm ơn Anh ngàn lần! Người thầy đã dạy cho
tôi biết cách dùng ngôn từ vần điệu để diễn đạt tình cảm, tình yêu... Nếu người
xưa đã có công đặt ra và truyền bá chữ Quốc ngữ để mở khai nền văn hóa văn minh
cho dân tộc, thì Anh đối với tôi cũng đã vô cùng công phu khai mở cho tôi con
đường vạn dặm đi vào cõi nghệ thuật thi ca...
Trước
kia, khi Anh mới chập chững bước vào thế giới thi ca, chắc Anh đã từng xem một
vài nhà thơ tiền bối nào đó là bậc thầy, bậc thi bá, thì Anh cũng hãy coi tâm
trạng của tôi đối với Anh y như thế.
Nào
tôi có dám ước mong sẽ có được danh vị nhà thơ của hôm nay và ngày mai đâu. Tôi
chỉ mong sao tấm lòng yêu Tổ quốc,... yêu người của tôi được thể hiện trung thực
qua vần điệu thi ca. Trên bước đường học hỏi trưởng thành ấy, tôi hoàn toàn tin
cậy ở sự dìu dắt của Anh, của tài Anh mà tên tuổi đã gắng liền với ĐÌU HIU, DƯỚI
BÓNG NGẬM NGÙI, với HÒA ÂM CỐ QUẬN, NGÀY VỀ DƯỚI MÁI NHÀ XƯA...
Anh Long, có bao giờ Anh nghĩ đến:
Mà trời thu cũ vẫn còn xanh"
Chắc
là có - vì có hơn một lần anh đã tư lự điều đó qua bài "Cầm gương soi
tóc":
Ngẩn ngơ tóc bạc nghe dường tóc xanh..."
Nhưng làm sao con người cưỡng lại được quy luật sinh diệt của vạn vật
hả Anh? Tóc của Anh, của tôi sẽ bạc, nhưng dẫu có bạc trắng đi sau một đêm viết
nên vần thơ bất diệt thì cũng không uổng cho một kiếp nhân sinh!...
Tôi
viết thư cho Anh trong một đêm mùa hạ "chưa nằm đã sáng" mà cứ ngỡ rằng
đang sống trong nhịp thời gian dằn vặt ở "Giữa lòng thu vang". Tôi ở
xa Anh 175 km Quy Nhơn - Quãng Ngãi mà như gần nhau gang tấc? à đúng rồi! Khi
người ta thương mến nhau thì xa mấy cũng hóa gần.
Anh
là trời thơ mở rộng hồn tôi...
Tôi
còn muốn tâm sự mãi mãi với Anh nhưng giấy tàn mực cạn và đêm mùa hè gà đã gáy
vang. Thôi tôi xin dừng bút để:
Nằm nghe thơ Anh náo động tâm tình...
Bạn yêu thơ
Huỳnh Hữu
Ký
Nguyễn
Mộng Giác
NGÀY ĐỨA CON HOANG TRỞ VỀ
"Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi,
bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của tình yêu.
Tôi đã vui, buồn, giận hờn đến gần đứt sự sống" (*)
Hàn Mặc Tử đã nói như vậy về cuộc sống mình. Và tất cả cái mãnh
liệt vạn đại, được truyền thẳng vào thơ, khiến mỗi chữ mỗi câu như còn dính não
cân, máu huyết của người sáng tạo.
Cho đến một trình độ nào đó, sự sống trọn vẹn đủ làm cho thơ
lớn dậy. Từ ngữ trở thành ngục tù. Âm điệu trở thành phù phím. Chỉ còn có sự sống,
chỉ còn có xúc cảm là quan trọng. Vì vậy không gì thú vị cho bằng tìm thấy qua
thơ hình ảnh trọn vẹn của một cuộc đời.
Không phải cuộc đời riêng của Vũ Phan Long. Thấp thoáng trong
ba tập thơ được xuất bản của nhà thơ ấy, chúng ta bồi hồi thấy lại chính cuộc đời
ta.
Thủa mới lớn lên, ta thấy gì khác hơn ngoài cuộc đời xôn xao
quanh đó. Tim ta hồi hộp, mắt ta bừng sáng tai nghe nhã nhạc mũi hít hương
thơm. Cuộc đời là một hòa điệu giữa hy vọng và mơ ước. Sắc hồng, nắng mới, lộc
non hoa nở. Vạn vật như thức dậy, tự mình cảm thấy xao động một cảm giác ngây
ngất chưa bao giờ cảm thấy:
Cánh ong trên lá rập rình
Môi em mật ngọt nụ tình nở hoa.
Dĩ nhiên giữa những xúc động xôn xao ấy, cũng có những khoảng
trống hư vô. Trong tập thơ đầu Đìu hiu, tâm hồn Vũ Phan Long không thiếu những
nét buồn. Nhưng buồn bã, thất vọng cô độc chỉ là những ngưng nghỉ của một cuộc
tình dài lần lượt tiếp nối. Lời thơ nhẹ như nỗi mơ ước mới lớn. Ý thơ bay bay,
dù là niềm ngây ngất hay là nỗi đìu hiu.
Bẵng đi ba năm, chúng ta thấy Vũ Phan Long không cho in tập
thơ nào nữa. Chúng ta tưởng nhà thơ ấy chỉ là một người tình hờ. Cười lên một
tiếng, rồi thôi, giấu biệt nỗi đau đớn làm của riêng. Nhưng chúng ta đã lầm.
Khoảng giữa năm 1971, Vũ Phan Long cho ra đời một tập thơ khác: "Dưới Bóng
Ngậm Ngùi". Ta tự nhủ: Có lẽ chỉ là dư âm của một nỗi đìu hiu thuở trước.
Cô đơn càng lan xa, càng tỏa rộng thì càng đưa hồn người thơ vào hoài niệm tiếc
nuối. Nhưng không. Ta đã lầm. Ý thơ chuyển. Điệu thơ khác. Cả từ ngữ cũng biến
thể. Cái du dương của một thuở yêu đời không còn. Trong mỗi câu của Dưới Bóng
Ngậm Ngùi ta tìm thấy những ác âm. Những Hán tự rải rác đây đó trong tập thơ giống
như những chướng ngại vật trên con đường đời. Như viên sỏi nhọn trên lối trăng.
Như chiếc gai độc sau nụ hồng. Như cay đắng còn lại ở đáy cốc rượu:
Lê thê gió nổi thu phần
Quê hương khuất bóng phong trần bước ai
Về đâu hải giác thiên nhai
Dấu chân Từ Thức u hoài xưa sau.
Người suốt một đời mơ những nắng mới, hương thơm, lộc non, điệu
nhẹ, có thể cảm giác thấy tiếc nuối khi vừa đọc xong Đìu Hiu rồi chuyển qua Dưới
Bóng Ngậm Ngùi. Nhưng các ác âm ấy báo hiệu sự chuyển hướng trong tâm hồn họ
Vũ, mà cũng là sự thay đổi trong chính hồn ta. Phải đến một lúc nào đó, đột
nhiên soi mặt vào gương, ta thấy mắt ta buồn, trán ta nhăn, môi ta mím lại cam
chịu ê chề. Phải có một ngày nào đó ta trải qua nỗi ngẩn ngơ của Vũ:
Cầm gương soi tóc ngậm ngùi
Tóc rằng tóc bạc đời vui tận đời
Bốn bề réo gọi má môi
Phất
phơ nghìn gái lũng đồi bốc hương
Ngẩn ngơ tóc bạc nghe dường tóc xanh.
Rồi cuộc đời trước mắt ta. Thơ chỉ còn là nỗi thống thiết, lạnh lẽo. Ta sẽ chập
chờn thấy già cỗi:
Đêm nay trăng lạnh chìm sau núi
Một bóng tre nghiêng mãi cuối trời.
Ta sẽ
chập chờn thấy cái chết:
Một con ốc chết trên cồn vắng
Xác tuyết nghìn thu lạnh bể khơi.
Ta sẽ thấy hư vô chờn vờn quanh đây, cùng khắp:
Một cành củi vang
Trăng tà vỡ máu
Thương lá muộn màng
Về đâu nương náu.
Và ta nghĩ đến đoạn kết của tất cả phận người. Kinh nghiệm
đến phút cuối, là kinh nghiệm của lão, của bệnh, của tử. Trăng lạnh, bóng tre
nghiêng, chân trời cuối, cồn vắng vẻ, lạnh bể khơi... những báo trước giờ tàn
của cuộc đời. Sau Dưới Bóng Ngậm Ngùi, có lẽ chỉ là hư vô.
Nhưng một lần nữa, Vũ Phan Long làm chúng ta kinh ngạc. Nhà
thơ ấy cho in tiếp thi phẩm thứ ba: Hòa Âm Cố Quận. Ta ngỡ ngàng thấy ở cuối
chân trời, bên kia bể lạnh còn có một vũ trụ khác hoan lạc lạ lùng. Họ Vũ mượn
lời của Herman Hesse tâm sự:
"Tôi đã học qua thể xác và linh hồn tôi rằng: tôi cần
phải phạm tội, cần phải đắm mê dục lạc, cần phải lao tâm nhọc trí kiếm tiền
của, trải qua những cơn buồn nôn và xuống tận cùng hố thẳm tuyệt vọng, để mà
học yêu thương cuộc đời, và không còn so sánh nó với một ảo tưởng nào về Toàn
Thiện, mà trái lại để cuộc đời nguyên trạng là nó, yêu thương và vui thích được
dự phần với nó".
Ta lại gặp một "cuộc đời nguyên trạng" trong Hòa Âm
Cố Quận cũng vẫn bấy nhiêu lầm lạc, nôn mửa, vỡ mộng, tội lỗi. Cũng vẫn bấy
nhiêu ác âm trong lời thơ. Có lẽ lại còn nhiều ác âm khúc mắc hơn cả Dưới Bóng
Ngậm Ngùi. Hán tự hết là những cô đọng cần thiết, đôi lúc hoàn toàn trở thành
những chướng ngại:
Nguồn nước lục chan hòa cỏ biếc
Cành thanh xuân phát tiết tay hoa
Chiêm bao cánh én la đà
Bình minh trì ngự giữa tà huy phai.
(Mùa xuân lễ hội)
Nhưng có điều mâu thuẫn là các ác âm ấy không làm nổi bật sự
thống thiết đau đớn như trước kia, mà lại tô đậm một niềm hoan lạc tràn đầy.
Chính nhờ những đày đọa của cuộc đời mà họ Vũ thấy cuộc đời đáng sống:
Ôi đất trời lòng thâm tạ rưng rưng
Đất nhung biếc cho ngón mềm tơ biếc
Hương trái mật cho nụ hồn ngát mật
Trời bồng
mây cho xiêm áo vờn mây
Giữa quê hương vĩnh phúc nước non nầy
Tay ta đấy em tựa đầu gối mộng
Cõi ngoài kia dẫu chập chùng gió sóng
Tổ tình yêu em yên ngủ linh hồn
Ta yêu đời, hạt bụi cũng yêu luôn!
(Con đồi vĩnh phúc)
Nhờ mặt đất lầy lội mà thấy được sự huyền nhiệm của vũ trụ.
Có gì khác nhau giữa cái tung tăng của một hạt bụi với cái bập bềnh phiêu bạt
của một đời người. Và nếu chịu khó lắng nghe, ta sẽ thấy cái cuộc đời xôn xao
ríu rít quanh ta: hạt bụi hòa hài, lá cây hớn hở, chim kêu ríu rít, núi sông tự
tại. Vũ trụ bao bọc mơn trớn đời ta, như một người mẹ hiền:
Nằm hôn mặt đất lệ dầm
Nghe hồn vũ trụ hòa âm bên người.
Lúc bấy giờ thế giới hiện ra dưới một hình thái khác. Như một
Đạo sư đạt đạo, Vũ Phan Long nhìn mọi sự chan hòa hoan lạc. Những giọt rượu đời
không còn nồng vị chua cay:
Những giọt rượu thanh bình mơ ước
Mùa hằng xuân non nước quê hương
Ngủ vùi dưới bóng tà dương
Máu me quên cả tư lường đớn đau.
(Chiếc ly thơm)
Cả đến những giọt lệ cũng trở thành giọt vui:
Giọt
nước mắt im lìm bên mộ
Đẹp
vòng tay Đất Mẹ chu toàn
Lệ
sầu hòa lệ hân hoan
Nồng
tươi cõi thế rộn ràng tiếng kêu.
(Giọt nước mắt)
Ngay cả những chuyện tạp nhạp nhất trần gian cũng trở thành
những nguồn hoan lạc. Trong khi ý thơ của họ Vũ vẫn là những hệ lụy ray rứt của
cuộc đời! Trong khi lời hòa Hòa Âm Cố Quận vẫn đầy những ác âm khúc mắc! Thế
mới lạ lùng.
Vang bóng sau bao nhiêu ác âm gai góc hiểm trở của ý và lời,
ta thấy chan hòa một niềm vui bất tuyệt. Niềm vui của đứa con hoang trở về cố
quận. Tiếng chân ngựa lóc cóc trên đường đá, vào buổi xế bóng của một đời, tự
nhiên có một nỗi náo nức riêng, còn sâu còn đầy, hơn cả niềm xôn xao mới lớn.
Có lẽ nên tưởng tượng thêm: trên chiếc xe ngựa trở về cố quận, còn có một thiền
sư lim dim đôi mắt, khe khẽ ngâm theo nhịp vó:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Qui Nhơn, đêm 07 - 03 - 1973
NGUYỄN MỘNG GIÁC
Thư gửi Vũ Phan Long
10
- 9 1981
Anh
Vũ Phan Long,
Chiều nay, vừa đem tập thơ tuyển của anh ra định tìm ý viết
bài bạt như đã hứa với anh hôm trước, thì gặp ngay bài thơ ngắn "Một
chuyến đi" anh viết hôm 26 - 6 - 1981
Thăm bạn hiền, bước lên xe mất ví
Bên ghế ngồi, chợt thấy nữ sinh quen
Thơ như suối quên đường xa trưa tối
Vai dẫu gầy, đầu hãy tựa...thưa em !
Một trong những ông bạn hiền được hân hạnh nhắc tới trong câu
đầu, là tôi. Điều đó khỏi cần phải hỏi lại. Đối với anh, với tôi, điều đó tự
nhiên. Nhưng anh Vũ Phan Long ơi, có bao giờ anh chịu khó suy nghĩ xa về trước,
sâu bên trong, để tìm hiểu cái "tình bạn hiền" giữa chúng ta không?
Anh khác tôi quá chừng! Hồi cùng dạy học ở Tây Sơn, anh thân với ba tôi nhiều
hơn với tôi. Tuổi tác là một lý do. Quá khứ phân rẽ là một lý do khác. Nhưng
còn những lý do quan trọng nữa mà vì tế nhị, có thể cả anh lẫn tôi đều không
nói ra. Thời ấy tuổi trẻ nông nỗi, lòng đam mê văn chương đi với niềm tin vào
những từ ngữ "lý tưởng", "chân lý", "công bằng",
"nhân bản" v.v... khiến tôi cả tin vào những thứ dao to búa lớn đại
loại như "sứ mệnh", "dấn thân" v.v..., cho nên đọc thơ anh,
tôi cứ thấy xa cách, hờ hững. Tôi đã nghĩ anh như một nhà thiên văn mãi miết đi
tìm một ngôi sao lạ giữa cảnh bát nháo của chợ đời, giữa cảnh vợ con nheo nhóc
và hàng xóm bắng nhăng. "Văn chương nhàn vịnh", tôi nghĩ vậy. Trong
khi tôi xem văn như một dụng cụ và quí nó vì tin nó sắc như một lưỡi gươm quí,
thì anh xem thơ như một hương trà, một đóa quỳnh. Anh ngưỡng mộ, anh tôn trọng
thơ, tôi thì cứ loay hoay xoay ngang xoay ngược xem dùng thơ vào việc gì. Cho
nên dù anh tham dự những cuộc rượu, những buổi bình thơ, những hôm ra mắt tập
thơ đầu của thi hữu, ở Qui Nhơn, ở Bình Định hay Phù Cát, tôi không có được
niềm vui như anh. Chắc chắn đôi lúc tôi có làm anh thất vọng. Vũ Phan Long nhớ
không, cái đêm anh hẹn xuống ngủ với tôi một đêm ở Cường Để để "nói chuyện
cho thỏa tình"? Đêm ấy chúng ta bắc ghế ra trước hiên lầu, trên trời hình
như trăng sáng thì phải. Lá phượng rậm ấp ủ, hương đêm mơn man. Quả tình chúng
ta cũng đã lan man tâm tình với nhau đủ thứ đầu cua tai nheo, nhưng tôi tin anh
không được thỏa tình như mong ước. Tôi, hay nói chính xác hơn - chúng tôi - xin
phép anh đi ngủ sớm để ngày mai còn lấy sức đi dạy học. Lúc ấy anh lấy làm tiếc
vì nói chuyện chưa thỏa tình, nhưng điều đáng quí biết bao là anh không hề
giận. Chỉ tiếc, như anh chàng hành khất nghiện trà của Nguyễn Tuân tiếc trong
ấm trà ngon chủ nhân đãi mình có lẫn một ít trấu. Thế thôi. Lần tôi viết bài
tựa tập Hòa Âm Cố Quận cho anh, Vũ Phan Long nhớ không, anh cũng chỉ tiếc nhẹ
như vậy. Ý anh muốn tôi viết bài tựa bằng nét chữ nắn nót hoa bướm trên giấy
quí để anh giữ làm kỷ niệm. Còn tôi, tôi lại viết trên giấy thi lục cá nguyệt
của học trò!
Sự tôn trọng của anh đối với văn chương, thời bấy giờ, tôi thầm
xem như một phong thái lạc lõng, Tôi xem lòng tôn trọng đó bằng đôi mắt kinh
ngạc và ngỡ ngàng. Tôi quí anh, nhưng thành thật mà nói, vẫn cảm thấy xa cách
với anh.
Phải chờ hơn sáu năm đâu bể, tôi mới nhận ra được rằng anh có
lý. Xem văn chương như một phương cách cải tạo xã hội ư? Tìm cái chân đế nhân
sinh cho bức tượng nàng Thơ ư? Những nguyên tắc đám trẻ tuổi nông nổi trước kia
xem là khuôn vàng thước ngọc, bây giờ đã thành "quốc sách" rồi đó!
Kết quả ra gì? Anh đã thấy từ lâu, nhưng bây giờ tôi mới thấy. Người ta mặc áo
hoa cho Nàng Thơ, để rồi buộc Nàng làm vai hề cung đình. Chung quanh ta thiếu
gì bọn lóm thóm, nín thở rụt đầu trước cửa quyền! Nàng Thơ lấm lét, run sợ, lựa
chữ chọn vần để đánh bóng cho những pho tượng bằng đồng cũng có mà bằng đất sét
nung vội cũng có. Còn đâu Lý Bạch uống rượu trên sập cao ra lệnh cho Cao Lực Sĩ
cởi giày? Còn ai dám trợn mắt nhìn thế sự ngâm sang sảng
Ngã dục cao đăng sầm
Hạo ca khởi vân thủy
như Cao Chu Thần? Cho nên mãi đến hôm nay, xa anh trong không gian, nói cười
không nghe được nhau, vui buồn không viết được cho nhau bằng lời, sau bao cuộc
chìm nổi để sự thật lộ dần, tôi mới dám nhận là "bạn hiền" của Vũ
Phan Long! Những gì tôi thiếu như lòng vô tư, như niềm tôn trọng đối với Thơ,
như phong thái thung dung trước mọi cảnh huống, như ánh nhìn lạc quan,
như...như biết bao nhiêu điều quí giá khác nơi tính tình và nhân cách của anh,
kể cả lòng ưu ái hồn nhiên trong tình bạn bè, đã khiến tôi càng ngày càng quí
anh hơn. Phải thế không? Vũ Phan Long, bạn hiền của tôi.
Điều thú vị là trong bài thơ ngắn anh tặng tôi - tất cả tâm
hồn đôn hậu và đam mê của anh hiện ra đầy đủ cả.
Cuộc đời quanh chúng ta thì vẫn vậy. Nó chỉ thay đổi cường độ
chứ không đổi bản chất (Tôi lại bi quan rồi, nhưng biết làm sao giờ!). Này nhé!
Bước chân ra đường, trước sau chúng ta chạm mặt ngay với phường trộm cắp. Anh
đã một lần nhân ba tôi bị mất ví mà xúc cảm làm được bài thơ hay. Vừa rồi quyết
định ra khỏi ẩn am đi Sài Gòn thăm bạn, anh liền bị mất ví. Ôi chao, đến lúc
nào mới khỏi cái cảnh vừa đi vừa hồi hộp đưa tay thăm chừng cái ví xẹp của mình?
Tiền mất, thôi được, mượn ai đó cũng xong! Khỏi lo, Vũ Phan Long ơi! Anh tự lập
lại y nguyên căn cước của anh trong bài Một Chuyến Đi rồi đấy! Anh đừng nghĩ
tôi nói đùa! Hãy đọc lại những dòng anh viết:
Thăm bạn hiền, bước lên xe mất ví
Bên ghế ngồi chợt thấy nữ sinh quen
Thơ như suối quên đường xa trưa tối
Vai dẫu gầy, đầu hãy tựa thưa em !
Rõ ràng sáu năm dâu bể đâu có đủ sức "tàn phá" được
chút gì của Vũ Phan Long!
Mất ví? Ồ chuyện vặt! Cảnh túng quẩn ở chỗ xa lạ? Vợ con cằn
nhằn? Nét mặt hồ nghi đăm đăm của công an kiểm soát? Vặt vãnh, ti tiểu hết! Con
người luôn luôn mở rộng cửa lòng để đón mừng mọi người, đủ bản lĩnh để không sợ
cả gió độc, thì cuộc đời cũng dành sẵn cho mọi điều hạnh phúc. Vũ Phan Long
không hoài công tiếc của, lo âu, giận dỗi, nên vừa bước lên xe đã gặp ngay
"nữ sinh quen". Tôi khoái cái chữ "quen" đó ! Chữ
"quen" thôi, chứ không phải "thân", không phải
"thương". Càng không phải là "cố nhân". Nhưng có hề gì! Vũ
Phan Long gặp được một cô gái học trò cũ nào đó là được rồi ! Cả cái quá khứ ấp
yêu những năm dạy văn ở Tây Sơn dồn dập trở lại. Thấp thoáng, rộn rã, đây đó
thoạt hiện rồi thoạt biến, kỷ niệm chập chồng lên nhau trong trí Vũ Phan Long:
một buổi bình thơ có đệm đàn thập lục, vạt áo trắng nữ sinh phủ hờ lên một dáng
liễu e ấp; một sáng từ trên bục giảng nhìn xuống những đôi mắt trong đang uống
từng ngụm cổ thi; một tiếng vĩ cầm còn non của người học trò tóc thề; và biết
đâu đấy, một hai...ba mối tình thầy trò thơ dại và lành như nước suối ! Phải,
như nước suối vì Vũ Phan Long đã xúc động mạnh mẽ, "Thơ như suối quên
đường xa trưa tối". Và cái chất lành của Vũ Phan Long hiện thật rõ trong
hai chữ "thưa em" ở cuối bài! Vũ Phan Long có gầy đi? Đúng! Nhưng chỉ
cần hai chữ "thưa em" cũng đủ thấy Vũ Phan Long trẻ mãi, lãng mạn mà
không phóng đãng, Đôn hậu mà không ngu ngơ. Chất thơ của Vũ Phan Long là ở chỗ
đó!
Những bạn trẻ bị cuộc sống cuốn hút hay bị quá nhiều hệ lụy
có thể không thích thơ anh, trách anh đứng bên lề. Thơ anh không có tính thời
sự. Còn bao nhiêu cái "tính" khác người ta kê khai "một
là", "hai là" trong các cuốn thánh kinh văn học, thơ Vũ Phan
Long lại càng thiếu thốn. Cứ muốn dùng thơ Vũ Phan Long để chứng minh điều gì
đều sẽ phải thất vọng. Thơ Vũ Phan Long chẳng để làm gì cả ! Không thể dùng để
chưng, không thể dùng để kết vòng hoa điếu tang! Thơ anh như một con hạc đen
ngủ trên một đỉnh núi heo hút, hay như một bông hoa không có tên, không do ai
vun tưới mà mọc tự nhiên giữa đám cỏ dại. Cái chất tự nhiên, ở ngoài thời cuộc
của thơ anh sẽ còn khiến cho nhiều người băn khoăn. Ghép anh vào trường phái
nào? Xếp anh vào cái túi nào ? Định bậc thợ cho anh sao đây? Anh không xếp hàng
xin chân thợ thơ, phiền nhỉ! Phê bình thơ anh cũng khó như ý muốn xếp vị trí
cho anh. Như đã nói từ đầu, có thời tôi nông nổi xem thơ anh thuộc loại
"nhàn vịnh". Suy đi nghĩ lại, chỉ có thể viết: Cuộc đời anh,
cách sống của anh, bản chất tâm tình của anh đúng là một bài thơ. Cho nên thơ
anh tự nhiên dung dị như chất thơ của cuộc đời, vui buồn thay đổi,dĩ nhiên rồi;
nhưng vui hay buồn cũng thung dung, hồn hậu chứ không câu thúc. Lúc anh đổi ý
cố rướn lên một chút, cho bằng hoặc giống cái này cái nọ, là lúc anh thất bại.
Lúc anh thật sự "mất ví"! May mắn thay, những lúc như thế thật hiếm
hoi!
Xin anh đã sống thế nào thì viết thế ấy, để bạn bè xa gần giữ
mãi được cái chất Vũ Phan Long như một vật lưu niệm quí giá của "tình bạn
hiền" ! Ủa ! Mà xin làm gì ? Tự nhiên Vũ Phan Long sẽ mãi mãi là Vũ Phan
Long! Sau sáu năm đổi thay đảo điên, họ Vũ có thay đổi chút nào đâu.
Thơ như suối quên đường xa trưa tối
Vai dẫu gầy, đầu hãy tựa...thưa em!
Lẳng lơ mà lành không chịu được!
Sài Gòn, Mùa trung thu 1981
Bạn hiền của anh.
Nguyễn Mộng Giác
LAM
GIANG
GHI
LỜI CẢM ỨNG
(Lời
tựa tập thơ ĐÌU HIU)
Nghệ
thuật chỉ làm thơ, chính tâm hồn mới là thi sĩ. (L'art ne fait que des vers, le
coeur seul est poéte). Lời nói của André Chénier, thi sĩ cổ điển Pháp cách đây
hai trăm năm đã trình bày gọn gàng một sự phân định cần thiết giữa nghề thơ và
hồn thơ.
Quê hương tôi, nước non Bình Định có hùng khí Tây Sơn, là nơi
xuất hiện những tâm hồn thơ nhiệt thành, coi thơ là lẽ sống.
Thơ của đất Bình Định đủ các sắc thái, từ cảm hứng bắt nguồn ở
Cách mạng Dân tộc, triết lý nhân sinh, đến những tâm thanh di hưởng của một ân
tình không thỏa nguyện.
Tập thơ "Đìu hiu" của gã thanh niên thi sỹ Vũ Phan
Long là hưởng điệp của những thi tứ đất Thần Châu Vijaya. Tôi bồi hồi trước những
vần thơ hoài cổ:
Lê
thê lá rụng buồn cô lũy
Lác
đác hoa rơi lạnh miếu đường
Dư
ảnh phồn hoa mây tản mác
Tháp
Tiên dầu dãi áy tà dương...!
Thành Đồ Bàn, gò Vân Sơn, biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt của
Bình Định, đã gào mây thét gió, khóc cười thời thế, xông pha gió bụi điên bái
mà tâm chí vẫn bất khuất ngang tàng:
Sự
nghiệp gì đây dòng nước lũ
Đan
tư nào đó đám mây nguồn
Bờ
mê tang hải mòn thân nộm
Rạp
mộng phong ba lỡ lớp tuồng.
Người đời nay bắt gặp cái hào khí của người xưa, hào khí
trong nghịch cảnh. Danh sĩ Nguyễn Trọng Trí há chẳng từng ngâm những câu phơi
gan xé ruột đủ làm rơi lệ người ngàn năm sau:
Mạt lộ cánh hà ngôn, Vân Sơn kỳ thọ cựu du, lãng tụng ngư tiều
ngô dữ tử...
Trần duyên an túc vấn, Yên Triệu bi ca bản sắc, trầm mai hào
kiệt cổ nhi kim!
Có người dịch rằng:
Đường cuối cùng thôi biết nói sao, thú nhởn nhơ cây mát gò
cao, Vân Sơn mấy vận ngư tiều, đây đó ngâm nga đà lắm lúc...
Việc trần thế ra gì hỏi nữa, mặt ngơ ngác than dài thở vắn,
Yên Triệu mấy chàng hào kiệt, xưa nay chôn lấp biết là bao!
Những con người theo đuổi mộng lớn, bao nhiêu năm mộng vẫn
còn là mộng, có thể ngâm chơi mấy câu trên của người xưa, hay trầm ngâm trước
những vần đầm đìa xót thương của người đời nay:
Hoài
công tháng đợi năm chờ
Rồi
ra cũng chỉ giấc mơ võ vàng
Tình
thương thoắt đã quan san
Cố
viên nức nở thu tàn gió khuya.
Tôi, người xa cố hương, đọc những vần trên đây của Vũ Phan
Long, bỗng nhiên nghẹn ngào, trông vời mây trắng... Có những chiều xuân. Có những
chiều thu. Nỗi buồn "Chiều" dưới đây phải chăng là chiều của núi Mạng
Lăng, của rừng An Túc?
Rồi
ra rừng trở cô đơn
Tóc
sương đời núi hao mòn tuổi thơ
Nhà
ai bản nhỏ bơ thờ
Đèn
hôm mắt đỏ gầy trơ, nỗi chiều!
Ở Vũ Phan Long, tôi còn nhận thấy khuynh hướng trữ tình sâu sắc,
đi tìm triết lý cuộc đời và tình yêu.
Tình yêu, đề tài bất diệt của lớp thi sĩ thanh niên. Ngàn xưa
và ngàn sau. Kết cuộc của tình yêu phải chăng là:
Còn
gì cho nhau!
Lửa
tắt mộng đầu
Thời
gian chậm rãi
Ghi
niềm tê tái
Từng
hạt minh châu.
Từ sắc thái xinh đẹp của đóa mộng đầu đến hồi tàn cuộc là giọt
minh châu lấp lánh dưới trăng đêm, chúng ta đừng vội tưởng là tình yêu đã dứt.
Bánh xe luân hồi vẫn chuyển biến, cho nên một hội hoa đăng khác lại bắt đầu:
Quan
san cách trở lối đăng trình
Duyên
kiếp tiền thân đã mối manh
Đã
hẹn ba sinh giờ ước nguyện
Đuốc
hoa bừng nối mộng tròn xinh.
Nguồn thơ của Vũ Phan Long như một dòng sông vừa mới khởi
hành ở đoạn thượng lưu.Từ đó, băng qua nhiều núi non, cao nguyên để xuống trung
châu, tiến về trùng dương, con đường còn xa vời, hướng tiến còn bâng khuâng, phụ
lưu còn đợi chờ nhiều thủy thế hợp lưu, nhưng chúng đứng ở thảo nguyên xinh đẹp
thượng lưu, chúng ta có quyền hy vọng thấy một sông dài, đêm trăng vang lên nhạc
điệu lưu thủy viễn khứ...
Chắc tôi còn có cơ hội gặp lại các bạn yêu thơ.
Mùa
mưa tha hương
1968
LAM
GIANG
No comments:
Post a Comment