Wednesday, September 30, 2020

Văn chương 2

                NHÃ VĂN HỘI QUÁN

"Bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ

Chén ngọc giờ chìm đáy sông sâu
Những lăng tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng
Mặt trời vàng và mắt em nâu
Xin chào Huế một lần anh đến
Ðể ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô
Áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy
Nắng minh mang mấy nhịp Tràng Tiền
Nón rất Huế nhưng đời không phải thế
Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng
Nhịp cầu cong và con đường thẳng
Một đời anh tìm mãi Huế nơi đâu
Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
Tạm biệt Huế với em là tiễn biệt
Hải Vân ơi xin người dừng tắt ngọn sao khuya
Tạm biệt nhé chiếc hôn thầm lặng
Anh trở về hóa đá phía bên kia".
Peony

BÀI CHO MÙA EM - hoàng chẩm
Em nâng một giọt sương mai
Trên từng phiến lá chưa phai dấu nồng
Tình ai trong nắng bềnh bồng
Đưa người về mộng thêm hồng mắt môi
Ta nâng tóc gió chiều rơi
Tình như tháp cổ chốn đời hư hao
Em về như một gửi trao
Thơm lây hương cỏ bay vào thiên thu
Nghiêng tay vén nắng sương mù
Tàn phai khép cuộc phù du phận buồn
Chiêm bao về giữa ngọn nguồn
Ngược xuôi lòng nhớ sầu tuôn gọi mùa.

TIẾNG MƯA ĐÊM - Tản văn Diệp Linh

Chưa bao giờ trong những tháng ngày này, cơn mưa thường hay đỏng đảnh với chúng ta như vậy. Có khi bước vội ra đường quên mang theo ô dù thì  một cơn bất chợt đổ ập xuống làm con người ta ướt như chuột dầm mưa. Nghe tiếng mưa rơi bên hiên nhà hay tiếng mưa từ cõi lòng hiu quạnh, sầu ai nhớ ai đến ai sầu ai nhớ.
Mưa ngang qua, làm con người ta lạnh hơn, cô đơn hay mong tìm được một vòng tay nào đó, cần một cái ôm cho lòng thêm ấm áp. Tiếng mưa rơi lả chả trong màn đêm âm u tĩnh mịch làm con người ta nhớ, ta sầu, làm ta đợi chờ.
Có người đâu có ưa mưa vì mưa bao giờ cũng gợi lên sự u buồn vô hạn, hay những cô gái lấy chồng xa xứ, xa cha mẹ già nghe mưa thì thôi não lòng lắm.  Tôi lại nhớ đến câu
Má ơi đừng gã con xa
Chim kêu vượn hú, biết nhà má đâu.
Với tôi mưa đến tôi yêu mưa đến kì lạ, thích cảm giác gió lành lạnh lùa qua áo, nhè nhẹ lướt qua chân tơ kẻ tóc, thấy mình yên ả biết bao,  ngoài đường, phố cũng  lặng lẽ không còn xô bồ như trước. Và mưa đến những bài mưa tình bolero chưa bao giờ hay đến nao lòng như thế, sâu lắng, buồn hơn nhưng nhẹ nhàng, ấm áp, làm người ta dễ chìm vào giấc mộng yên bình, hay vô tình gọi thầm tên anh trong giấc say nồng.
Mọi thứ đã trở thành quá khứ, thời gian là lớp bụi phủ mờ tất cả nhưng mưa vô tình rửa sạch để quá khứ, mối tình đầu lại hiện rõ mồn một trong tôi, lại nhớ anh từng là người tôi yêu thuở trước.
Giờ đây anh chỉ như một trong  biển người vô hạn khi chiều dần đổ bóng, một cơn mưa rào bỗng ghé qua làm rơi vài giọt rồi ngưng cũng đủ làm tôi giật mình tỉnh mộng sau cơn mê.
Vẫn khung cảnh ấy, phố cũ lối xưa, ánh mắt nụ cười cái nắm tay thật chặt ấy nhưng người đi bên anh không  phải là tôi. Vô tình trên vạn nẻo đường đời tấp nập ta lướt qua nhau bằng nụ cười của kẻ xa lạ bỗng giọt mưa rơi trên má lăn dài nóng hổi chẳng qua nước mắt ai rơi.
Mưa qua đi làm tôi thấy lạnh, vội lấy chiếc áo khoác vào người vậy cũng đủ ấm rồi. Đâu cần mưa phải có ai kề bên mới gọi là ấm. Đời vẫn đẹp sao khi mỗi người chỉ có 60 năm để sống và vui vẻ trọn vẹn thì tôi hà cớ gì cứ vùi đầu trong cái quá khứ mà bản thân nó đã ngủ yên theo thời gian.
Ngoài trời, tiếng mưa đêm vẫn rơi rả rích nhưng mong là lòng mau tạnh…

SINH RA TỪ LÀNG - Tản văn Nguyễn Thị Xuân Hương
Tôi, một người sinh ra và lớn lên từ làng! Mùi của đất, mùi rơm rạ và hoa lá cỏ cây như thấm đẫm vào da thịt, vào hơi thở và giọng nói của tôi. Bởi thế, tôi rất tự tin khi bước đi trên cỏ, trên con đường làng quen thuộc nơi tôi sinh ra… Ở nơi đó, tôi có thể thoải mái ngắm đồng ngô, ruộng lúa, vạt vườn mướt xanh sắc cỏ. Ở nơi đó, cỏ ve vuốt, nâng niu bàn chân tôi, cỏ tha hồ níu bám vào ống tay áo, ống quần khi tôi tung tăng một mình trên con đường quê trong chiều hoàng hôn lộng gió… Con đường làng ấy chạy dọc theo triền sông mùa hạ nước đã dâng đầy. Dòng sông nước trong xanh, mát lịm như làn nước mùa thu lững lờ êm trôi…       
                Chiều bên sông, nắng đã ngả màu vàng, mặt trời đã bớt chói chang, ráng chiều vàng vọt khi hoàng hôn đang chìm vào chạng vạng. Tôi đi trên con đường chạy dọc triền sông và ngắm nhìn mọi thứ. Tôi nghe trong làn gió thổi như có tiếng xạc xào của mùa thu chênh vênh, chấp chới… Chính nơi đây, ngày xưa tôi cùng với đám bạn chạy thả diều, cánh diều vút bay cao trong gió… Nơi đây đã nuôi dưỡng tâm hồn tuổi thơ tôi trong sự bình yên, trong trẻo đến khôn cùng…
    Bước chậm rãi trên con đường nhàu nhĩ bụi thời gian trong chiều chạng vạng, nhìn lũ trẻ đang lùa đàn bò về trong ánh hoàng hôn rơi rớt phía bên sông, lòng tôi nao nao dâng lên niềm nhớ, chất chứa hoài niệm theo dòng thời gian… Chiều quê hương nhẹ nhàng đưa tôi trở lại ngày xưa… Phút tĩnh lặng trôi đi, tôi ngờ ngợ hỏi tôi, đã bao mùa hạ vụt qua trong nuối tiếc? Tự nhiên thấy nhấp nhói nơi lồng ngực trái… bao bâng khuâng, khắc khoải… Mùa nhớ lại ùa về…
   Tháng sáu, chúng tôi được nghỉ hè. Chỉ sau đúng một ngày thôi,  lũ trẻ chăn trâu đã bắt đầu điểm danh hết lượt, từ đứa đầu làng cho đến đứa mãi nơi cuối xóm (những đứa trẻ có khi hơn kém nhau cả vài ba tuổi). Bãi cát vàng ven sông thật dài, với cái nhìn trẻ thơ thì bãi cát ấy dài bất tận. Công trường cát sỏi luôn nhộn nhịp với những băng chuyền, cần cẩu và hàng trăm công nhân san xúc không ngừng tay. Kho cát chính là nơi diễn ra nhiều trò chơi nhất của lũ trẻ chăn trâu. Con đê nhỏ hẹp lúc bấy giờ gồ ghề, nhấp nhô và có không biết bao nhiêu cái ổ gà, ổ voi to đến thế! Triền đê, sau cơn mưa đầu mùa hạ, cỏ mọc xanh non mịn màng mát rượi, thơm tho như dòng sữa mẹ. Cỏ lá, cỏ may rồi cỏ mận trầu sao mà ngon quá thể? Đàn trâu bò được quấn thừng quanh cổ một cách gọn gàng và dồn đuổi xuống triền đê thỏa sức mà gặm… Xong! Những đứa trẻ bắt đầu chia quân (bao giờ cũng chỉ 2 quân cho dù bọn trẻ có đông đến mấy). Trời mát thì chơi trận giả nấp mình sau những ụ cát hàng trăm, hàng ngàn khối. Chúng tôi leo được lên đỉnh ụ cát đã mỏi nhừ cả đôi chân, mũi mồm tranh nhau thở. Vậy mà vẫn thích xung phong, thích tấn công tạo nên bao “trận đánh” oanh liệt lẫy lừng. Đứa nào đứa ấy mặt đỏ hây hưa, tóc bết mồ hôi và dính đầy cát, chơi với nhau như thể cả ngày không biết chán.
 Những ngày trời gay gắt nắng, lũ trẻ lùa đàn trâu bò ra  phía bờ sông, nơi đó có vườn nhãn sum suê cành lá, khu vườn mát rượi và ríu rít tiếng chim. Đàn bò thung thăng gặm cỏ dọc theo bờ sông vắng. Trên vườn cây, bọn trẻ bắt đầu trèo tút ngút trên những cây nhãn trong vườn để chơi trò và đùa nghịch... Thương cho những cây nhãn rìa sông, cả thân và cành cây  chẳng để lại vết sần nào của lớp vỏ cây. Chẳng hiểu học từ đâu mà đứa lớn, đứa bé, trai hay gái làng tôi đều biết leo trèo hết lượt. Nhìn bọn trẻ chuyền cành nhanh như sóc khiến người lớn thót tim lo sợ… Nhưng chả sao cả, bọn trẻ cứ đùa nhau cười như nắc nẻ trên vòm cây.
       Rồi khi ánh hoàng hôn buông xuống, mặt nước dòng Lô đẹp lung linh đến ngẩn ngơ cũng là lúc bọn trẻ hò nhau xuống tắm. Nước mùa tháng sáu mát lạnh (Các cụ nói đó là nước nguồn)  lũ trẻ trâu tha hồ vẫy vùng bơi lội, tiếng trêu chọc nhau chí chóe, tiếng hét, tiếng cười và cả tiếng thách đố đuổi nhau dưới nước… Đã là trẻ làng tôi thì đứa nào mà chẳng biết bơi! Ông bà thường nói: “Có phúc đẻ con biết lội, có tội đẻ con biết trèo.” Vậy không biết các cụ làng tôi có phúc hay phải tội chăng?
    Những đêm hè trăng sáng, ánh trăng vàng dịu mơ màng trải khắp làng quê cũng làm tan bớt đi cái nóng nồng oi ả. Vùng quê nghèo chưa có điện, những đêm trăng sáng thế này lũ trẻ lại gọi nhau í ới ra bờ đê ngồi hóng gió mát từ phía dòng sông Lô thổi tới. Bọn trẻ chúng tôi cũng tập hát, tập hò, học lỏm người lớn những câu hò quen thuộc, để rồi hò trêu ghẹo nhau, đấm nhau thùm thụp, đuổi nhau chạy dọc con đê cười nghiêng ngả cho đến tận đêm khuya…
         Tháng sáu về, lòng tôi quay quắt nhớ… Nhớ cơn mưa mát lạnh đầu mùa, nhớ về tuổi thơ nhuộm đầy màu sắc ở một miền quê thanh bình yên ả. Nơi đó thắm đượm giọt mồ hôi nước mắt, sự vất vả của mẹ cha tháng ngày mong con khôn lớn… Nơi đó có ước mơ, có tiếng khóc, tiếng cười, có buồn vui sâu lắng như dòng chảy của con sông...
   Rồi chiều nay, rảo bước trên con đường làng thơm mùi hoa cỏ, tôi bắt gặp trong gió tiếng xào xạc của vòm cây, rả riết tiếng ve trong bản nhạc mùa hè dai dẳng… Bất chợt nhìn lên vòm lá mà cứ thế chơi vơi… chơi vơi… Để rồi chợt thấy lòng xốn xang về những ngày vĩnh viễn không còn trở lại…
          Ngày tháng trôi đi thật chậm mà cũng thật nhanh! Lũ trẻ trâu da đen nhẻm, tóc khét nắng đỏ như râu ngô làng tôi xưa kia giờ có người đã lên chức ông bà nội, ngoại, có người đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài, người làm quan chức to trong quân đội, làm lãnh đạo tỉnh, huyện… và có người cũng  làm nghề gõ đầu trẻ như tôi… Những đứa trẻ sinh ra và lớn lên từ làng đó có trở nên vững vàng cứng rắn bao nhiêu đi nữa thì khi trở về quê hương không thể không mềm lòng trước dòng sông êm ả với rặng tre xanh và làn khói lam chiều ngai ngái khi hoàng hôn đang chìm vào chạng vạng…






Văn chương

 TÌNH CA MÙA THU, NGÔ THỤY MIÊN - Huỳnh Long

Khi ngồi một mình có thể bị lầm tưởng bạn đang cô đơn. Tuy nhiên cô đơn là một trạng thái, không phải là một phán đoán nó cũng có thể biến thành một động lực, là tiền đề khẳng định phẩm giá bản thân, nó góp phần thúc đẩy cá nhân vươn tới và vượt qua những khó khăn, hay theo đuổi một mục đích đặc biệt. Khi một người diện với cô đơn, thì con người ta mới có thể nghiệm chính mình mà trưởng thành. Cô đơn cần thiết cho người, là điều không thể thiếu. Nó khuyến khích sự độc lập, và tất nhiên để làm tăng sức mạnh nhân cách, khả năng chịu đựng cô đơn là một điều kiện tiên quyết cho tự do. Tự do tuỳ thuộc vào khả năng tư duy, và tư duy chỉ có thể bắt đầu khi con người trong trạng thái cô đơn…
Mỗi sáng sớm ngồi một mình chợt nhận ra dường như không gian được nhuộm vàng hơn bởi những sợi nắng vương tơ, trong làn gió dịu dàng mang chút heo may khẽ lay động những chiếc lá đang chuyển màu, thì cũng đủ biết rằng thu về đến. Mùa thu trong năm được ví như vẻ đẹp đằm thắm dịu dàng, mơ màng mộng chin của đời người phụ nữ. Không phải vẻ sôi động của xuân, chẳng lừng khừng đỏng đảnh nắng mưa của hạ, chẳng già nua sầu úa của mùa đông. Thu là mùa lãng mạn của cảm xúc, dễ day dứt lòng người. Bởi vì thế mà có người cho rằng thu là mùa của tình yêu, mùa của những rạo rực yêu đương, nhưng cũng có người cho rằng thu làm người man mác buồn. Bất luận là ai đã yêu, đang yêu hay chưa yêu thật thà thú nhận với lòng mình, rằng mùa thu là mùa TÌNH. Mùa của những cảm xúc lãng mạn thơ mộng nhất và chất chứa những nỗi niềm da diết nhất của con tim. Vậy thì hà cớ gì mà không trải lòng mình với thu, mùa của những bản tình ca sâu lắng.
Nhắc đến tình ca mùa thu, có gì bằng tình ca Ngô Thụy Miên. Một Ngô Thụy Miên cả đời sáng tác nhạc, chỉ viết duy nhất thể loại nhạc tình. Tình yêu và những hoài niệm của quá khứ và hiện tại, hạnh phúc và khổ đau, nhưng trong tình ca Ngô Thụy Miên không có cái bi lụy, sầu thảm, nên có người cho rằng nhạc của ông kén chọn người nghe, không phải là nhạc “bình dân” là nhạc sang trọng. Điều ấy thật sự là ngộ nhận. Tình ca Ngô Thụy Miên có đông đảo người nghe và cảm nhận, bởi nghe tình ca Ngô Thụy Miên dường như cảm nhận là những bản tình ca hay và đẹp đến lộng lẫy, từ giai điệu đến ca từ, tình tứ và gợi cảm đến ngất lịm con tim, nhẹ nhàng mà sâu lắng, lấp lánh lẫn chơi vơi, mơ hồ. Vậy nên nhắc đến Ngô Thụy Miên, là mặc nhiên nhớ đến tình ca. Đặc biệt những bản tình ca mùa thu, bởi phần nhiều những tình ca của Ngô Thụy Miên đều viết cho mùa thu.
“Mùa Thu cho em” tôi nghĩ rằng đây chính là bản tình ca hay nhất viết cho mùa thu. “em có hay khi mùa thu tới, bao trái tim vương màu xanh mới?” . Đây đâu có gì là một thu tàn úa, mà ngược lại thu là để cho trái tim rạo rực được yêu, được sống. Tình yêu với những cung bậc cảm xúc hạnh phúc đắng cay hay sầu đau đến não nề. Nó có trong “Mắt Thu” hay “Em về mùa Thu” chất chứa những nỗi buồn da diết của một trái tim đang yêu, cũng như nổi buồn mùa thu làm nên vẻ đẹp mùa thu. Ngồi một mình trong chiều thu, sương giăng hiu hắt nghe lá rơi để lắng nghe “Bản tình ca cho em” như nuôi dưỡng cảm xúc của trái tim, để thấy yêu người, yêu đời hơn:
“Và em có mơ khi mùa thu tới
hai chúng ta sẽ cùng chung lối
em với anh mơ mùa thu ấy tình ta ngát hương...”
Với “Niệm Khúc Cuối” Ngô Thụy Miên tận hiến cho một tình yêu vị tha cao thượng:
“Dù cho mưa
Tôi xin đưa em đến cuối cuộc đời
Dù cho mây hay cho bão tố
Có kéo qua đây
Dù có gió có gió lạnh đầy
Có tuyết bùn lầy có lá buồn gầy
Dù sao dù sao đi nữa tôi cũng yêu em”.
Nhạc Ngô Thuỵ Miên luôn có một góc dành riêng biệt trong trái tim cho tất cả người nghe, không ai lẫn vào ai. Ngồi một mình trong không gian tĩnh lặng nghe bản nhạc dịu êm như gió thu rón rén tìm về, cứ để mặc cho giai điệu, từng ca từ thiết tha, giản dị, ngọt ngào, sâu lắng, cay đắng, yêu thương, tiếc nuối,.. thấm trọn con tim, để con tim rung động, để thấy một cảm giác buồn chông chênh, hư ảo, cô đơn từ sâu thẳm trái tim mình, cứ ngỡ rằng Ngô Thụy Miên sáng tác bài “ Riêng Một Góc Trời” chỉ để dành riêng cho mình vậy.
“Người vui bên ấy, xót xa nơi này, thương hình dáng ai
Vòng tay tiếc nuối, bước chân âm thầm, nghe giọt nắng phai
Đời như sương khói, mơ hồ, trong bóng tối
Em đã xa xôi, tôi vẫn chơi vơi, riêng một góc trời…
……..
Một mai em nhé, có nghe Thu về, trên hàng lá khô
Ngàn sao lấp lánh, hát câu mong chờ, em về lối xưa
Hạ còn nắng ấm, thấy lòng sao buốt giá
Gọi tên em mãi, trong cơn mê này, mình nhớ thương nhau…”

NGÔ THỤY MIÊN - NGƯỜI RU TÌNH BẰNG ÂM NHẠC - CỏLau

Cỏ Lau biết đến cái tên Ngô Thụy Miên hơi trễ, cũng có thể đã nghe qua các ca khúc với những mỹ từ rất đẹp của ông nhưng không biết tác giả là ai. Một sự vô tâm đáng trách.
Phải thú thật là Cỏ nhớ cái tên này qua một người bạn. Anh ấy thích livestream để hát (dù giọng anh khá khiêm tốn với những chỗ nốt cao và kéo dài âm sắc). Mong anh không đọc được bài viết này vì đang bóc phốt anh, không tình bạn đi tong. Mỗi lần lên sóng facebook, anh ấy xử tất các thể loại nhạc và không quên kết thúc bằng bài: "Niệm khúc cuối", không quên nhắc tên tác giả. Anh ấy hát với vẻ mặt đầy tâm trạng . . . nhập hồn. Có thể đó là bài mà anh hát không quá tệ và vì lời quá hay, nên Cỏ " nghiện" nghe Ngô Thụy Miên. Nói không quá, Ngô Thụy Miên như người ru tình bằng âm nhạc.
Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên từng nói : “Tôi không viết nhạc để sống, nhưng sống để viết nhạc”. Nghe nhạc của Ngô Thụy Miên tôi liên tưởng tới hai cái tên đình đám khác : Đoàn Chuẩn - Từ Linh với chất nhạc không trộn lẫn, mượt mà, lãng mạn, da diết . . . nhưng không sầu bi. Dẫu biết trong nghệ thuật không nên so sánh. Tình khúc ca của người nghệ sĩ này dùng âm nhạc và lời ca để thăng hoa tâm hồn chứ không bị bó buộc bởi hoàn cảnh cụ thể nào. Đó là những nhịp rung rất chân thành trong tình yêu, luôn là tình ca và tình ca ĐẸP. Nghe nhạc của Ngô Thụy Miên để thấy đời đáng sống và cái cao cả trong tình yêu là sự cho đi lặng thầm. Cỏ rất xúc động khi đọc được một bài viết, người nghệ sĩ tài hoa này đã phát biểu như thế này : "Tôi chỉ xin được nhớ đến như một người viết Tình Ca không hơn không kém".Để thấy một Ngô Thụy Miên vẫn luôn chung thủy cho một khuynh hướng âm nhạc, ngợi ca tình đôi lứa. Dù có cách trở, dù có chia xa . . . vẫn không thôi mong chờ, nói với người xa tôi nhưng cũng là viết cho riêng mình.
Một chiều mưa, ngồi trong quán cà phê nơi góc phố , chìm lòng trong: "Riêng một góc trời" . . .một ca khúc mà Cỏ thích nhất của Ngô Thụy Miên.
"Tình yêu như nắng, nắng đưa em về, bên dòng suối mơ
Nhẹ vương theo gió, gió mang câu thề, xa rời chốn xưa
Tình như lá úa, rơi buồn, trong nỗi nhớ
Mưa vẫn mưa rơi, mây vẫn mây trôi, hắt hiu tình tôi"
Cô đơn là vậy mà vẫn thương nhớ khôn nguôi một bóng hình . . .
"Người vui bên ấy, xót xa nơi này, thương hình dáng ai
Vòng tay tiếc nuối, bước chân âm thầm, nghe giọt nắng phai"
Để rồi dặn mình . . .một nỗi mong chờ rất mong manh:
"Đời như sương khói, mơ hồ, trong bóng tối
Em đã xa xôi, tôi vẫn chơi vơi, riêng một góc trời
Người yêu dấu, người yêu dấu hỡi
Khi mùa xuân vội qua chốn nơi đây
Nụ hôn đã mơ say, bờ môi ướt mi cay, nay còn đâu
Tìm đâu thấy, tìm đâu thấy nữa
Khi mùa đông về theo cánh chim bay
Là chia cách đôi nơi, là hạnh phúc rã rời, người ơi
Một mai em nhé, có nghe Thu về, trên hàng lá khô
Ngàn sao lấp lánh, hát câu mong chờ, em…"
Điểm hay trong nhạc Ngô Thụy Miên dù xa hay gần . . . thì vẫn luôn có anh và có em cùng . . . thương nhớ trải theo từng cung bậc cảm xúc.
"Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn. Mà mùa thu rải nắng ở chung quanh" . . . Một Ngô Thụy Miên rất dịu ngọt trong tình yêu đến vậy.
----------------

NHỮNG DÒNG SÔNG CHỞ NẶNG PHÙ SA - Tản văn Diệp Linh (Long An)

Tôi sinh ra và lớn lên ở vùng sông nước, tuổi thơ tôi bồng bềnh trôi theo những dòng sông quê. Bởi vậy dòng nước sông mát lành trong vắt thân thuộc như hơi thở, như sự sống. Con sông bắt đầu từ nơi nào xa lắm, về đến quê tôi uốn lượn, ôm ấp làng bãi, cho cá tôm đầy ắp..., bồi đắp phù sa cho mùa màng tốt tươi, cuộc sống vì thế mà bình dị yên ấm.
Với mỗi người dân quê, dòng sông như lòng mẹ bao la, đầy ắp yêu thương. Tôi lớn lên biết ơn dòng sông như biết ơn người mẹ thứ hai của mình. Trưởng thành, lập nghiệp ở phố thị phồn hoa, dòng sông trở thành niềm nhớ miên man. Và trong cõi nhớ ấy, bến sông chính là nơi trú ngụ bình yên nhất của tâm hồn người. Biết bao lần, tôi thèm được trở lại bến sông xưa, ngụp lặn trầm mình trong dòng nước mát, vốc từng kỷ niệm tuổi thơ êm đềm.
Còn đó từng đám lục bình trôi theo con nước, neo đậu bên những chiếc xuồng ba lá nhè nhẹ xuôi theo dòng mà lòng bình yên đến lạ. Còn đó những ngày vui đùa với lũ bạn ở quê quen thuộc, đuổi nhau té nước, ném bùn đất, tiếng cười hồn nhiên vang khắp mặt sông. Còn đó dáng mẹ tôi ngồi giặt giũ áo quần, kỳ cọ xoong chảo khi nắng chiều vừa tắt. Đôi mắt thỉnh thoảng ngước nhìn xa xăm. Cứ mỗi chiều tà hay hừng đông trời sáng, những chiếc xuồng neo trên bến sông bán hàng bông rau cải, bán rau, bán cá, tôm do chính những người nông dân ra đồng bắt được từ tối qua hay những chiếc xuồng bán bánh cam, bánh còng cho trẻ con cứ bập bềnh trên mặt nước. Tất cả như còn in đậm trong tôi đã từng sống và lớn lên nơi miền sông nước.
Dòng sông đi qua tháng ngày, bến sông còn mãi với thời gian nhưng đã thưa dần bóng những đứa trẻ, dần không còn ai ra tắm giặt hay gánh nước. Trên lối đi cỏ dại phủ đầy. Một chiếc cầu sắt hiện đại bắc qua sông, vĩnh viễn không còn thấy bóng con đò chở khách năm xưa. Bến sông nhộn nhịp thủa nào giờ quạnh vắng đìu hiu. Nhưng không phải vì thế mà ân tình với sông quê nhạt phai trong tâm trí.
Tôi và lũ bạn ngày xưa, tất cả đều được sông quê nâng đỡ chở che, lớn lên mỗi người một nẻo đường. Cuộc sống dù đủ đầy xa hoa hay còn lận đận truân chuyên nơi xứ người nhưng tất cả vẫn một lòng đau đáu với sông quê, với những điều bình dị và thiêng liêng nhất.
“Sông vẫn chảy như nỗi niềm da diết
Ai tha hương mới hiểu hết nỗi lòng...”.
Sống giữa thành phố công nghiệp ồn ào náo nhiệt, thật khó tìm cho mình một khoảng lặng để tâm hồn thư thái, chỉ có thể về với dòng sông yên bình thủa xưa. Và may mắn thay dòng sông quê tôi chưa bị ô nhiễm, dù con người không còn sử dụng nước sông để sinh hoạt nhưng nó vẫn âm thầm chở nặng phù sa bồi đắp cho cánh đồng làng quê thêm trù phú. Mái tóc tôi không còn xanh nhưng dòng sông thì vẫn trẻ, con nước hiền hòa biếc trong, đôi bờ ngô mía tốt tươi. Tiếng hát của ca sĩ Anh Thơ chợt vang lên đâu đó như nói hộ lòng tôi “Quá nửa đời phiêu dạt, con lại về úp mặt vào sông quê. Ơi con sông dạt dào như lòng mẹ, chở che con đi qua chớp bể mưa nguồn”.
Bây giờ không còn con sông để tắm mát những trưa hè biết tìm ở đâu những ngày thơ ấu? Để rồi mai đây trên đường đời tấp nập chợt vô tình ngoảnh lại - dòng sông quê sao mà thân thương quá đỗi, để thấy trong sự lớn lên của mình có vị ngọt phù sa hòa lẫn trong dòng nước mát lành…

Phan Trang Hy 2

                  ĐẠO CA CỦA PHẠM DUY

- Phan Trang Hy

(Bài in trên QUÁN VĂN số 72&73 tháng 07/2020)

10 bài Đạo Ca, theo tôi, là sự đồng cảm, tương tri, tương ngộ giữa nhạc sĩ Phạm Duy và tu sĩ Phạm Thiên Thư. Chỉ có tâm hồn “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” mới có sự ứng hiệp như vậy. Sự ứng hiệp ấy đã tạo nên 1 chương khúc Đạo Ca cho âm nhạc Việt.
Trước hết, trong “Pháp Thân” (Đạo Ca 1) là hình ảnh em và anh trong vô lượng kiếp. (Nếu) Em là (làm) kiếp chim, kiếp lá, kiếp hoa, kiếp gió, kiếp ao, chữ biếc; (thì) anh làm (là) cội băng mai, mưa tháng bảy, giọt sương sa, chim chích chòe, chim bói cá, thiền sư buồn mong hóa thân làm mực. Để rồi, cả anh và em hẹn:

“Mai sau chờ nhau nhé, đầu thai vào kiếp hoa
Chốn mây mờ phiêu bạt, chờ đợi... chim hót ca.
A ha, ta tuy hai mà một! A ha, ta tuy một mà hai!
A ha, ta tuy hai mà một! A ha, ta tuy một mà hai!”
Trong “Đại Nguyện” (Đạo Ca 2) là hình ảnh muôn loài tương thân tương, tương ái. Đó là sương cùng hoa quấn quýt như hai kẻ yêu nhau: “Muôn loài như sương rơi, xin làm hoa trắng đỡ/ Hoa yêu sương chẳng rời, hoa yêu sương tuyệt vời”. Đó cũng là:

“Muôn loài như hoa thắm, xin làm một ánh dương/ Cây cỏ mừng ánh nắng, tiếng chim hót dị thường”… Muôn loài như một cùng cất tiếng hát ca ước nguyện lớn: “Thương người như thương thân!/ Thương người như thương mình!/ Thương người như thương thân!/ Thương người như thương mình!/ Thương người như thương thân!”

Đạo Ca 3 có tên là “Chàng Dũng Sĩ Và Con Ngựa Vàng” (Ảo Hóa) như câu chuyện tình của Chàng Dũng Sĩ tìm dấu người yêu: “Một chàng dũng sĩ trên thớt ngựa vàng rong ruổi sa trường/ Một chàng dũng sĩ trên thớt ngựa vàng rong suốt thời gian / Một chàng dũng sĩ đôi mắt u buồn như ánh trăng vàng/ Lòng chàng nung nấu một mối u sầu tìm dấu người yêu”. Chàng tìm khắp chốn, khắp cõi mà chẳng thấy bóng người. Một hôm chàng cùng ngựa qua sông. Và rồi: “Ngựa vàng đã hóa thân, hóa thân là người yêu muôn thuở/ Ngựa vàng đã hóa thân, hóa thân là người vẫn hằng mơ/ Rồi chàng dũng sĩ, đôi mắt sáng ngời như ánh mặt trời/ Cùng người yêu quý đi suốt cuộc đời, tình ái nở hoa/ Viên thành đạo ca cho đời ca hát!”

Còn trong “Quán Thế Âm” (Hóa Thân / Đạo Ca 4) là câu chuyện về bà mẹ đi tìm con “trên đỉnh đồi lan trắng”, “trong động hang lan vàng”, “bên bờ sông lam tím”, “trong thung lũng cỏ hoang”. Cả 4 mùa Mẹ lang thang tìm con từ thời còn là thiếu phụ đến khi già tóc trắng. Rồi một hôm Mẹ hóa thân: “Tim Mẹ thành ra trùng dương, máu Mẹ thành sông thành nước/ Ôi đời trầm luân, Mẹ thương, chiếu ánh sáng từ quang/ Bây giờ Mẹ đã thành mơ, hơi Mẹ hoá thành hơi gió/ Bốn mùa ngồi nghe mọi nơi, tiếng Mẹ ru bồi hồi/ Xưa là Mẹ đi tìm con, tiếng Mẹ ru buồn khắp chốn/ Bây giờ hiện thân Mẹ chung, tiếng Mẹ hát ru dịu dàng”.

Trong “Một Cành Mai” (Đạo Ca 5), thế giới hiện ra là một thế giới đầy nước mắt: “Em bé khóc đòi cha, như mẹ khóc đòi con/ Người chồng khóc người vợ, người yêu khóc người yêu/ Nước mắt vẫn đầy vơi, sinh tử vẫn còn đây/ Ðời này qua đời nọ, tử sinh vẫn còn kia”. Quả là "Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển" (Khế Kinh). Nước mắt ấy là bởi sinh tử, hận thù, mê muội. Chỉ khi nào con người nguyện dâng, tự nhìn lại chính mình trong kiếp nhân sinh thì “đau buồn sẽ đổi thay”, “thoát khỏi nỗi tử sinh” như “Cành mai đã rụng rơi, rơi rụng xuống cuộc đời/ Một cành mai rụng rời, làn hương vẫn chẳng phai”. Hình ảnh cành mai như rực sáng, như ánh hào quang xua tan thế giới hận thù đầy nước mắt, mê muội: “Người không riêng của ai, nhân loại vẫn của người/ Ðặt mình trong dòng đời, tử sinh cũng là vui/ Một cành mai, mai mãi, mãi mãi/ Một cành mai, mai mãi, mãi mãi/ Mãi mãi...”. Nghe Đạo Ca 5, tôi nghĩ ở đây có sự đồng điệu giữa những tâm hồn ngộ lẽ sinh tử ở đời, tôi lại nhớ và thấy hình ảnh Mãn Giác Thiền Sư dặn đệ tử: “Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận/ Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” (“Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm qua, sân trước một nhành mai”, Ngô Tất Tố dịch).
Còn trong “Lời Ru, Bú Mớm, Nâng Niu” (Đạo Ca 6) là lời của tình yêu thương vô bờ bến của Mẹ cho con “yêu tiếng dịu dàng”, “ơn mãi tình nồng”, “mến Nhạc và Thơ”, “không oán thù người”... Tôi như thấy trước mắt tôi là hình ảnh mẹ tôi, là hình ảnh của tỷ tỷ bà mẹ, là hình ảnh Đức Mẹ Maria, là Quán Thế Âm bồ tát hóa thành Thượng Đế hát ru:

“Con ơi! Mẹ là Thượng Ðế, cho con tâm lý nguyên sơ
Câu ru và dòng sữa quý, cho con nguyên lý diệu vời
Ru con rằng: Ðời muôn lối, như mây kết hợp, rồi tan
Thân con là Trời cao vói, tim con là cõi địa đàng
Ù ơ Mẹ ru con biết:
Yêu thương như câu đầu lòng
Nghìn năm còn đây thắm thiết
Câu ru mạch máu Ðông Phương”.
Còn “Qua Suối Mây Hồng” (Vô Ngôn / Đạo Ca 7) dựa trên truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh. Cuộc chiến giữa Thần Núi với Thủy Vương ở đây, chỉ là cuộc chiến “thầm lặng”, “vô ngôn”. Và kết thúc trong “thầm lặng”, “vô ngôn”:

“Một sớm, hoa rụng nhài
Mỵ Nương và Thần Núi
Làn suối mây lưng trời
Đưa về nơi mãi mãi
Còn lại siêu hùng ca
Thiên Thư không cần chữ
Sáo Thần không cần lỗ
Vi vu trong lòng người
Một khúc ca giục người
Vượt muôn trùng ảo huyễn
Về chốn không lụy phiền
Suối mây này dẫn đến”...

“Giọt Chuông Cam Lộ” (Đạo Ca 8) là tiếng chuông, là tiếng đại hồng chung “ngọt lành, thơm mát” từng giọt, từng giọt xua tan bóng đêm, “đón đưa ánh trời”, đem tỉnh thức cho nhân thế, đem hân hoan đến muôn loài, đem an bình đến nhân loại:

“Tiếng chuông lẫy lừng cho cội đá mừng
Xóm thôn tưng bừng, chim chóc xôn xao
Tiếng chuông lên núi, làm trái mật say
Xuống trên luống cầy, cho đòng lúa trổ
Tiếng chuông Cam Lộ cho biển trầm tư
Cho đời người hết ưu tư”...

Trong “Giọt Sương Cam Lộ”, ta còn bắt gặp hình ảnh “Một nụ mai nở giữa cơn gió rừng/ Thiền Sư lững thững xuống non, chống gậy/ Lòng tay nắm lấy tiết Ðông giá lạnh/ Giọt mưa lóng lánh, lắng trên gậy vàng/ Gậy Thiền đưa xuống không gian vô tận/ Gậy Thiền đưa xuống thế gian cõi thường/ Thời gian mãi mãi, tiếng chuông sáng ngời”. Quả là hình ảnh đẹp. Hình ảnh ngời ngời mà ấm áp; mờ ảo mà gần gũi; lồng lộng mà dịu dàng bởi “Thiền Sư xuống núi, cứu nguy cho đời/ Ngọt lành thơm mát, từng giọt chuông vang”.

Còn khi nghe “Chắp Tay Hoa” (Quy Y / Đạo Ca 9), tôi như thấy tôi, thấy mọi người đang chắp tay nguyện cầu, tôn vinh giá trị vĩnh hằng của thế giới. Tôi như thấy Phạm Duy, Phạm Thiên Thư, cùng tôi và anh em, bè bạn, cùng người thân, cùng nhân loại chắp tay lạy Người, lạy Trời, lạy Đất, lạy Nước, lạy tất cả cái thế giới huyền diệu này, bởi “Đâu không là Phật? Đâu chẳng là Trời?”. Nghe để rồi thấy rằng muôn vật, muôn loài như bông hoa cỏ, hạt bụi rơi, suối xuôi non, mây lên ngàn, hoặc sông, hoặc nguyệt… cũng chỉ là ở tại tâm giữa trần ai luân hồi vọng tưởng. Và thấy rằng “Chắp Tay Hoa” là:

“Chắp tay lạy Người, xin cho nụ cười
Chắp tay lạy Trời, cho đám mưa rơi
Chắp tay lạy Đất, cho mầm cây tươi
Chắp tay lạy Nước, cho mát cõi đời
Chắp tay lạy Người, chắp tay lạy Trời
Chắp tay lạy rồi, lạy mãi không thôi
Lạy mãi không thôi!
Lạy mãi không thôi!”

Bài cuối của chương khúc Đạo Ca là “Tâm Xuân” (Tam Giáo Đồng Nguyên / Đạo Ca 10). Nghe Đạo Ca này, tôi liên tưởng đến những dự ngôn về một thời kỳ đẹp đầy ơn phước của Tạo Hóa - thời kỳ Thánh Đức, thời kỳ Long Hoa Hội, thời kỳ Di Lạc hiển minh, thời kỳ Chúa tái lâm… Tôi chưa thấy tương lai như dự ngôn của các tôn giáo, nhưng tôi tin rằng, chính Tam Giáo (Phật, Nho, Lão) cũng như các tôn giáo khác đều cùng nguồn cội. Nguồn cội ấy là Tâm Xuân của mỗi người trong thế giới ta bà đầy biến động này. Chính Tâm Xuân đem lại sự yên bình, an vui, độ lượng, bao dung, đạo hạnh dù lòng người luôn nghĩ suy, trăn trở

“Mùa Xuân có không? Hay là cõi Tâm?
Mùa Xuân có không? Hay là cõi không?
Về nguồn về cội! Về nguồn về cội!
Ðể rồi vươn tới, với lòng mênh mông”...

10 bài “Đạo Ca”, theo tôi là sự hiệp thông của Phạm Thiên Thư, Phạm Duy cùng muôn vật, muôn loài; là sự hướng thiện đến Đại Ngã vô cùng. Đó cũng là những gì trong con người Phạm Duy có chứa cái Siêu ngã - siêu Tôi (The Superego) muốn hòa cùng Đại Ngã. Thật là quý khi âm nhạc Việt có chương khúc như vậy.
Tháng 02 / 2020
Phan Trang Hy

Phan Trang Hy

CÓ MỘT PHẠM DUY NHƯ THẾ

Phan Trang Hy

Gia tài âm nhạc của Phạm Duy để lại cho đời quả là đồ sộ. Nhiều lần, tôi có trao đổi với một số thân hữu, nhiều người đều khẳng định Phạm Duy là một trong những nhạc sĩ đóng góp lớn vào nền âm nhạc nước nhà. Phạm Duy cũng đã tự bạch là âm nhạc của ông có nhiều đề tài, chủ đề như Hương Ca, Bé Ca, Tình Ca, Đạo Ca, Tục Ca, Rong Ca, Thiền Ca… Khi nghe những bài hát theo từng chủ đề, đề tài ấy, trong tôi chợt lóe lên là hiển hiện một con người Phạm Duy với nhiều cung bậc khác nhau của cuộc đời.
Nghe và đọc ca từ trong các tác phẩm âm nhạc của Phạm Duy, tôi lại gặp một Phạm Duy thể hiện rõ tính cách có đủ 3 yếu tố Cái Nó - Bản năng có người gọi là Tự ngã (The Id), Cái Tôi – Bản Ngã (The Ego) và Siêu Tôi - Siêu Ngã (The Superego).
Cái Nó (có người gọi là Tự Ngã) – Bản Năng trong nhạc Phạm Duy
Theo SigmundFreud, Cái Nó chính là nguồn cung cấp libido và chi phối suốt cuộc đời con người.
Theo tôi, không chỉ Phạm Duy, mà bất cứ ai cũng đều có libido. Mỗi người thể hiện libido bằng hình thức của riêng mình. Có người, thể hiện bằng tranh tượng; có người thể hiện bằng động tác, cử chỉ, lời nói; có người dung âm thanh. Riêng Phạm Duy, theo tôi, libido của ông được phô bày bằng giai điệu và ca từ âm nhạc. 10 bài Tục Ca như thể hiện một phần Cái Nó của ông.
Nghe và đọc 10 bài Tục Ca của ông, tôi mới vỡ lẽ rằng, cái Cái Nó ấy không chỉ riêng ông. Tôi nhớ hồi còn con nít, ngoài chuyện đi học, đôi khi cùng bạn bè cùng giới đem “chim” của mình ra khoe với nhau. Rồi cũng có lúc nói về “bướm” của tụi con gái. Hoặc, tụi trẻ thường vẽ hình tướng của sinh thực khí như là một phần tưởng tượng, để rồi khám phá sự diệu kỳ của tạo hóa khi thành nhân. Theo tôi, Cái Nó ấy, theo thời gian, là sự thường của một phần tính cách con người. Ai không dưới một lần nói tục? Và kẻ ấy là ai? Tôi chịu! Và cái tục ấy, theo tôi nghĩ, sẽ đi suốt cuộc đời của con người. Tôi nhớ là mình đọc ở đâu đó trong truyện tiếu lâm, rằng có người sắp chết mà vẫn cho là mình không việc gì khi “chim” còn cựa quậy.
Nghe 10 bài Tục Ca, hình ảnh đầu tiên mà người nghe cảm nhận là hình ảnh sinh thực khí, các bộ phận trên cơ thể con người được Phạm Duy đưa vào âm nhạc, kể cả chuyện giao hoan.
Hình ảnh sinh thực khí nữ thành lời ca, quả là điều độc, lạ trong âm nhạc. Thực ra, trong văn học dân gian, hình ảnh này đã có trong ca dao, tục ngữ hoặc truyện cười, kể cả trong văn học đương đại cũng có. Còn trong tân nhạc Việt Nam hình ảnh này quả là “sốc” với người nghe. Một đoạn có lời ca lặp đi lặp lại từ “l…”, tâm trạng bạn như thế nào khi nghe?
“L… non l… non hay lớn con mập mạp l… mềm
L… tròn hoặc l… móm mém
Mọi l… mình đều vui xem
Một hôm một hôm đang đứng chơi thằng bạn chạy về
Trình làng ngoài cầu có cái
L… vàng cả làng ra coi
Lũ ranh con tò mò tọc mạch
Bị đánh chết cha không chừa không chừa”.
(Tục Ca số 7 – “Nhìn L…”)
Còn đây là bài Tục Ca khác, vẫn hình ảnh chỉ sinh thực khí nữ với mùi vị riêng của tình dục. Cái mùi vị riêng ấy, khơi dậy cái libido của từng chủ thể. Cái Nó động dục bởi mùi vị ấy:
“Người ấy thường hay đến gặp tôi
Thở dài khi thấy nách tôi hôi
Nói rằng sao nách anh hôi thế
Mỗi lần ngửi thấy chết đi thôi
Mỗi lần ngửi thấy chết đi thôi
Nhưng trót yêu anh em ráng chịu cho rồi
Vả chăng em vẫn thường hay nói
L… mình đôi lúc cũng hôi hôi…”
(Tục Ca số 2 – “Tình Hôi”)
Bên cạnh đó hình ảnh sinh thực khí nam cũng được Phạm Duy chọn làm lời ca. Hình ảnh “c…” được lặp đi lặp lại trong bài. Nếu nghe chỉ là nghe thì tùy bạn:
“Cầm c… cho nó đái nó đái trên đầu bay
Cầm c… cho nó chơi nó chơi trên đầu mày
Cầm c… cho nó đéo nó đéo cho mày coi
Cầm c… cho nó bơi hễ qua sông là thôi”…
(Tục Ca số 10 - “Cầm C…”)
Hoặc các bộ phận trên cơ thể con người như đầu, chân, đít, vú, tóc, răng,… mang dục tính cũng thành lời ca. Lời ca ấy khơi dục bằng âm thanh, hình sắc như trong các bài Tục Ca số 3 – “Gái Lội Qua Khe” (thơ Bùi Giáng), Tục Ca số 6 – “Mạo Hóa”.
Ngoài ra, chuyện giao hoan cũng đi vào lời ca như chuyện cợt đùa. Chuyện giao hoan thành lời cho âm nhạc quả là độc. Nghe Tục Ca số 5 – “Khỉ Đột” (phóng tác Le Gorille của Georges Brassens), hoặc Tục Ca số 4 – “Úm Ba La Ba Ta Cùng Khỏi”, người nghe tưởng chừng nghe kể chuyện làm tình.
Theo Freud thì Cái Nó là gốc rễ của mọi nguồn năng lượng tinh thần, khiến nó trở thành thành phần chính của tính cách. Chính vì thế, Cái Nó, cái libido thành lời ca đâu chỉ là chuyện vui mà nó là phần đời của Phạm Duy.
10 bài Tục Ca tuy thể hiện Cái Nó - Bản Năng (có người gọi là Tự Ngã), nhưng qua đó ta thấy được một Phạm Duy sống thực với chính mình, sống hết mình với thất tình, lục dục ở chốn nhân gian.
Siêu Tôi – Siêu Ngã (The Superego) trong nhạc Phạm Duy
Tiếp đến, tôi xin đề cập đến Siêu Tôi – Siêu Ngã (The Superego) trong một số bài nhạc của ông. Theo tôi, những chương khúc viết về Đạo Ca, Thiền Ca và trường ca Hàn Mặc Tử có lời chuyển tải được cái Siêu Tôi.
Trước tiên là chương khúc Đạo Ca. 10 bài Đạo Ca, theo tôi, là sự đồng cảm, tương tri, tương ngộ giữa nhạc sĩ Phạm Duy và tu sĩ Phạm Thiên Thư. Lời của Phạm Thiên Thư hòa vào trong giai điệu, âm thanh của nhạc Phạm Duy ngợi ca cái Siêu Tôi.
Cái Siêu Tôi ở đây chính là sự ngợi ca chân lý của đời sống tinh thần, ngợi ca sự ngưỡng vọng thế giới tâm linh. Đối với người Việt, cụ thể, đó là ngợi ca về tiếng chuông chùa, ngợi ca lời kinh Phật. Tiếng chuông chùa, lời kinh Phật làm bừng thức tâm linh, xoa dịu nỗi đau khổ của chúng sinh, đem thái bình cho thế gian, đem an vui cho nhân loại:
“Bóng đêm qua rồi, bóng đêm qua rồi
Tiếng chuông vang hồi, tiếng chuông vang hồi
Thấy trong nhân loại tiếng chuông vang hồi
Ngọt lành thơm mát, từng giọt chuông rơi.
Nụ hoa đang ngủ, giấc êm giữa nội
Giọt sương trên lá đón đưa ánh trời
Để cho con suối vươn vai trở mình
Chùa rêu lơ lửng giữa lưng núi mờ
Đại hồng, chuông lớn đã khua tiếng ròn
Nụ cười yên tĩnh ngát hương khói trầm
Lời kinh cao ngất A Di Đà Phật
Ngọt lành thơm mát, từng giọt chuông vang”…
(Đạo ca 8 – “Giọt Chuông Cam Lồ”)
Theo SigmundFreud, Siêu Tôi là một phần trong tính cách nắm giữ tất cả những tiêu chuẩn đạo đức và lý tưởng mà con người tiếp nhận từ cả cha mẹ và xã hội – nó chính là cảm nhận của con người về cái đúng sai trong cuộc sống. Chẳng hạn, mẹ thương yêu con là điều đúng, là lẽ đạo hợp với tự nhiên, tạo hóa. Mẹ luôn che chở, thương yêu, hy sinh vì con là chuyện thường tình của con người. Dẫu thường tình, nhưng tình yêu ấy là vĩ đại. Phạm Duy và Phạm Thiên Thư đã kể chuyện bằng âm nhạc về một bà Mẹ, đi tìm con khắp chốn, tìm con cả bốn mùa. Thế rồi, Mẹ chết đi hóa thành Mẹ chung của nhân loại. Chính tình yêu thương con vô bờ bến đã biến tình yêu của Mẹ ôm cả trần gian. Mẹ là Quán Thế Âm chốn bụi trần:
“Thế rồi, một hôm Mẹ chết, hơi Mẹ trong trời chưa hết
Ôm cả trần gian đầy vơi, nhân loại đeo tang người
Tim Mẹ thành ra trùng dương, máu Mẹ thành sông thành nước
Ôi đời trầm luân, Mẹ thương, chiếu ánh sáng từ quang.
Bây giờ Mẹ đã thành mơ, hơi Mẹ hóa thành hơi gió
Bốn mùa ngồi nghe mọi nơi, tiếng Mẹ ru bồi hồi
Xưa là Mẹ đi tìm con, tiếng Mẹ ru buồn khắp chốn
Bây giờ hiện thân Mẹ chung, tiếng Mẹ hát ru dịu dàng
Tiếng Mẹ hát ru dịu dàng
Tiếng Mẹ hát ru dịu dàng”.
(Đạo ca 4 – “Quán Thế Âm”)
Tiêu chuẩn đạo đức và lý tưởng còn thể hiện ở sự hướng thiện, hướng về chân lý, hướng về cái đẹp vĩnh hằng. Sự hướng đến chân thiện mỹ trở thành nhu cầu tâm linh, nhu cầu của sự thức tỉnh để lột xác, hóa thân của từng chủ thể để đạt đến cõi an lạc. Chỉ có thái độ, hành xử bình đẳng, trân trọng sự sinh hóa với muôn loài mới có thể đạt đến cảnh giới an lạc, mới thấy tâm bình yên giữa nơi chốn luân hồi:
“Tâm là đảo quý giữa biển luân hồi
Thần thánh đi rồi, chỉ có lòng thôi
Hiện hữu đây rồi, không ý không lời
Tôi không là Tôi, Người không là Người
Mười phương mây nổi như cánh hoa trôi
Như sóng ra khơi, như hơi gió thổi
Như mây xa vời, như bóng hạc trời
Tôi không là Tôi, Người không là Người”.
(Đạo ca 9 – “Chắp Tay Hoa”)
Tiêu chuẩn đạo đức và lý tưởng cũng được thể hiện ở lòng nhân ái. Đã là Người, thì lòng nhân ái cũng là điều giúp con người trở thành Người đúng nghĩa. Tục ngữ Việt Nam có câu “Thương người như thể thương thân”. Đó cũng là ý nguyện lớn đâu chỉ cho riêng ai. Thử tưởng tượng cảnh đời như thế nào khi có ý nguyện ấy được cất lên bằng lời ca tự cõi lòng:
“Thương người như thương thân! Thương người như thương mình!
Thương người như thương thân! Thương người như thương mình!
Thương người như thương thân!”
(Đạo ca 2 – “Đại Nguyện”)
Ngoài ra còn các bài Đạo ca 1 – “Pháp Thân”, Đạo ca 3 – “Chàng Dũng Sĩ Và Con Ngựa Vàng”, Đạo ca 5 – “Một Cành Mai”, Đạo ca 6 – “Lời Ru, Bú Mớm, Nâng Niu”, Đạo Ca 7 – “Qua Suối Mây Hồng”, Đạo Ca 10 – “Tâm Xuân” cũng hướng đến cái siêu nhiên, sự thương yêu màu nhiệm, sự hiến dâng cho tha nhân… Điều đó, cho thấy Phạm Duy và Phạm Thiên Thư phần nào hướng đến tiêu chuẩn đạo đức và lý tưởng.
10 bài Đạo Ca, theo tôi là sự hiệp thông của Phạm Thiên Thư, Phạm Duy cùng muôn vật, muôn loài; là sự hướng đến Đại Ngã vô cùng. Đó cũng là những gì trong con người Phạm Duy, Phạm Thiên Thư chứa cái Siêu Tôi – Siêu Ngã (The Superego)muốn hòa cùng Đại Ngã. Thật là quý khi âm nhạc Việt có chương khúc như vậy.
Ngoài Đạo Ca, chương khúc Thiền Ca gồm có 10 bài, theo tôi cũng hướng đến lý tưởng và tiêu chuẩn đạo đức. Trong Thiền Ca, tiêu chuẩn đạo đức lý tưởng ấy hiện rõ trong quy luật nhân quả. Đây là quy luật hầu hết mọi vật, mọi chúng sinh được (bị) chi phối. Mọi thứ đều được (bị) cuốn vào vòng tử sinh luân hồi, kể cả lời hứa:
“Tròn như lời hứa chung tình
Chưa tròn nhân quả tái sinh còn nhiều”.
(Thiền Ca 10 – “Nhân Quả”)
Bên cạnh đó, chất Siêu Tôi còn được Phạm Duy hiển lộ bằng suy nghiệm của những người hành thiền bằng âm nhạc. Có thể, với Phạm Duy nhìn vũ trụ này vừa chung vừa riêng, vừa trống không vừa đầy ắp sinh trùng, vừa thực vừa hư, vừa động vừa tĩnh:
“Thinh không
Vắng vẻ trầm ngâm
Lặng lẽ âm thầm
Yên tĩnh vô cùng
À à a a bỗng
Rộn rã tưng bừng
Nhất nhất trùng trùng
Nhưng cũng là không…”
(Thiền Ca 1 – “Thinh Không”)
Siêu Tôi trong Thiền Ca còn được Phạm Duy chọn lọc những ngôn từ, như thanh lọc tâm hồn hướng đến cái đẹp, cái vô cùng của tạo hóa:
“Một loài hoa không tên
Không sắc không hương
Mà như lòng tôi
Lộng lẫy thơm lừng
Tỏa ra bốn hướng
Một ngọn suối không tên
Bé nhỏ, ngoan hiền
Mà như lòng tôi
Nổi sóng lên đường
Thành bốn trùng dương
Và lòng tôi không tên
Như suối, hoa tiên”.
(Thiền Ca 4 – “Không Tên”)
Theo S. Freud thì Siêu Tôi hành động nhằm hoàn thiện và giáo hóa hành vi của con người. Nó đè nén tất cả các ham muốn không thể chấp nhận của Cái Nó và đấu tranh để bắt Cái Tôi hành động dựa trên các chuẩn mực lý tưởng thay vì theo các nguyên tắc của thực tế. Chính vì thế, Siêu Tôi trong Thiền Ca của Phạm Duy còn hiển lộ ở thái độ cợt cười thất tình, lục dục - những thứ làm khổ con người - tự răn mình chọn lọc ký ức để an nhiên, tự tại:
“Nhớ ơn người
Quên thù ai
Nhớ điều buồn
Quên điều vui
Nhớ tình này
Quên tình khác
Nhớ mình rồi
Quên mình luôn
Ha ha ha
Ha ha ha!”
(Thiền Ca 8 – “Răn”)
Cũng theo S. Freud, Siêu tôi chỉ dẫn giúp con người đưa ra phán xét. Chính sự phán xét mà con người mới tự răn mình và khuyên người khác. Bội bạc, dối trá, hung dữ, hận thù đem lại gì ngoài cái chết! Rõ là Phạm Duy đưa ra phán xét để thoát được bến mê, đến được bờ sông giác:
“Muốn tới được bờ sông giác
An nhiên hát nhỏ, cùng tôi
Tôi là tôi, tôi cũng là em
Em là tôi, em cũng là anh
Là Xuân con bướm hút nhụy xuân tình
Là gió xuân hồng, là cơn xuân vũ
Là ý thơ nồng trang giấy xuân thư”.
(Thiền Ca 5 – “Xuân”)
Ngoài ra, các Thiền ca còn lại như Thiền ca 2 – “Võng”, Thiền ca 3 – “Thế Thôi”, Thiền ca 6 – “Chiều”, Thiền ca 7 – “Người Tình”, Thiền ca 9 – “Thiên Đường Địa Ngục” cũng được chắt lọc lời ca mang hơi thở, giai điệu phù hợp với chất thiền.
Và theo tôi, với 10 bài Thiền Ca, Phạm Duy suy nghiệm, làm chứng cõi thiền bằng ngôn từ âm nhạc như đưa người yêu nhạc tự lắng hồn rửa sạch những bụi trần, hướng đến cõi siêu nhiên.
Siêu Tôi trong nhạc Phạm Duy, không những có trong Đạo Ca, Thiền Ca mà còn có trong trường ca Hàn Mặc Tử. Trong trường ca Hàn Mặc Tử, Phạm Duy đã chọn những bài thơ tiêu biểu của tập thơ “Gái Quê”, “Thơ Điên” (“Đau Thương”), và “Xuân Như Ý” để phổ nhạc. Trường ca này gồm 3 phần: phần I – “Tình Quê”, phần II – “Trăng Sao”, phần III – “Ave Maria”. Cũng trong trường ca này, phần III – “Ave Maria” cũng thể hiện Siêu Tôi. Siêu Tôi ở đây là sự ngưỡng vọng, là lời xưng tụng Đức Bà Maria. Bởi Bà là Thánh Nữ tinh truyền giàu nhân đức, từ bi, với nhiều phép lạ nhiệm màu:
“Maria Maria
Maria linh hồn tôi ớn lạnh
Maria Maria
Run như run thần tử thấy long nhan
Maria Maria
Run như run hơi thở chạm tơ vàng
Maria Maria
Nhưng lòng nhuần ơn trìu mến
Maria Maria”…
Theo Phúc âm Luca, Sứ thần Thiên Chúa Gabriel (Ga-bri-en) đến gặp thiếu nữ đồng trinh Maria để tiên báo về việc mang thai Chúa Giêsu. Lời báo tin ấy là Tin Mừng cho nhân loại. Để ngợi ca Tin Mừng ấy, Phạm Duy đã dựa vào lời thơ của Hàn Mặc Tử xưng tụng Sứ thần Thiên Chúa Gabriel. Xưng tụng Gabriel cũng là xưng tụng hồng ân của Thiên Chúa Toàn Năng với Mẹ Maria Sầu Bi, cũng như loài người tội lỗi:
“Hỡi Sứ Thần Thiên Chúa Ga-bri-en
Hỡi Sứ Thần Thiên Chúa Ga-bri-en
Khi Người xuống truyền tin cho Thánh Nữ
Người có nghe thơ màu nghiệm ra đời
Người có nghe náo động cả muôn trời
Người có nghe xôn xao nghìn tinh tú
Để ca tụng bằng hoa hương sáng láng
Bằng tràng hạt, bằng Sao Mai chiếu rạng
Một đêm Xuân là rất đổi anh linh
Hỡi Sứ Thần Thiên Chúa Ga-bri-en
Hỡi Sứ Thần Thiên Chúa Ga-bri-en
Lòng vua chúa như lòng lê thứ
Sẽ ngất ngây bởi thơ đầy ứ
Nguồn thiêng liêng yêu Mẹ Sầu Bi
Nguồn thiêng liêng yêu Mẹ Sầu Bi…”
Mẹ Maria là Đấng tinh truyền. Xưng tụng Mẹ cũng là sự ngưỡng vọng về Phượng Trì vừa hư vừa thực. Sự ngưỡng vọng ấy hướng đến Cái Đẹp vĩnh hằng rực rỡ hào quang, bởi “Cái Đẹp cứu rỗi thế giới” (F.M. Dostoyevsky).
“(Lạy Bà là Đấng tinh truyền)
Phượng Trì ôi Phượng Trì ôi Phượng Trì
(Lạy Bà là Đấng tinh truyền)
Phượng Trì ôi Phượng Trì ôi Phượng Trì
(Lạy Bà là Đấng tinh truyền)
Phượng Trì ôi Phượng Trì ôi Phượng Trì
(Lạy Bà là Đấng tinh truyền)
Phượng Trì ôi Phượng Trì ôi Phượng Trì
Thơ tôi bay suốt một thời chưa thấu
Hồn tôi bay biết bao giờ mới đậu
Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang
A-men”.
Theo S. Freud thì “Siêu Tôi luôn hướng tới sự hoàn hảo về đạo đức”. Hướng tới sự hoàn hảo về đạo đức trong trường ca này, có thể nói đó là sự ngưỡng vọng, ngợi ca Cái Đẹp: Phượng Trì, Sứ Thần Gabriel và Mẹ Maria.
Có thể nói rằng, những lời ca trong “Đạo Ca”, “Thiền Ca” và trường ca “Hàn Mặc Tử” hướng tới sự hoàn hảo về đạo đức để Phạm Duy thể hiện Cái Tôi trong những lời ca lắng đọng còn lại.
Cái Tôi – Bản Ngã (The Ego) trong nhạc Phạm Duy
Bên cạnh Cái Nó, Cái Siêu Tôi – theo tôi – Cái Tôi cũng cần đề cập. Bởi hầu hết nhạc của ông đều có Cái Tôi.
Trước tiên, đó là Cái Tôi yêu nước. Hầu như mọi người đều công nhận trong một số bài hát, cũng như một số trường ca, Cái Tôi yêu quê hương, đất nước của ông cất lên cùng tiếng lòng của người dân Việt. Đâu phải một mình Phạm Duy mới thể hiện tình yêu quê hương, đất nước trong âm nhạc. Nhưng qua lời ca, nghe lời ca ấy cất lên, người yêu nhạc lại thổn thức, trầm trồ có một nhạc sĩ viết lời ca với những giai điệu làm xao xuyến lòng người, khơi dậy cái tình yêu quê hương, đất nước ấy trong bản thể của người nghe. Cái tình yêu ấy bắt nguồn từ tiếng khóc đầu đời, từ lời ru của mẹ, của bà… Không thể không xúc động khi nghe lời ca:
“Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời! Người ơi!
Mẹ hiền ru những câu xa vời
À à ơi! Tiếng ru muôn đời
Tiếng nước tôi! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi! Nước ơi!”…
(“Tình Ca”, Sài Gòn, 1953)
Tình yêu quê hương, đất nước ấy cụ thể là yêu con “sông đào xinh xắn” đem nước tưới mát cánh đồng quê thơm mùa gặt hái, là yêu bóng dáng của mẹ, của chị, của em lúc tan chợ chiều vội về lo bữa cơm chiều đầm ấm, và là yêu nhớ cô gái có miếng cười duyên. Đó còn là yêu bóng đa che chở những trẻ quê lúc trưa hè im nắng, có những con trâu lành nằm nghe khúc sáo quê hiền hòa. Đó còn là tình cảm với những bà mẹ quê hát ru, vỗ về, ôm ấp tuổi thơ. Và chính những gì cụ thể đó, khi xa quê, tình yêu ấy dâng trào thành nỗi nhớ xốn xang:
“Tình hoài hương!
Khói lam vương tâm hồn chìm xuống
Chiều soay hương!
Sống vui trong mối tình muôn đường
Tình ngàn phương!
Biết yêu nhau như lòng đại dương
Người phiêu lãng!
Nước mắt có về miền quê lai láng
Xa quê hương! Yêu quê hương…!”
(“Tình Hoài Hương”, Sài Gòn, 1952)
Yêu quê hương, đất nước trong nhạc Phạm Duy còn là tiếng thở dài về cái nghèo của quê hương một thuở. Tiếng thở dài ấy không bi lụy mà là tiếng lòng quá đỗi yêu quê, bởi quê nghèo hiện lên với hình ảnh “những cánh đồng cát dài”, “lũy tre già tả tơi”, “ruộng khô”, “ông già rách vai”, “đàn trẻ gầy”, “người bừa thay trâu”,… Yêu đến nỗi chỉ mong có ngày được mùa, để gái trai rộn ràng niềm vui đôi lứa:
“Bao giờ cho lúa được mùa luôn, lúa ơi
Để cho cô con gái không buồn vì gió Đông
Bao giờ cho lúa về đầy sân, hỡi em
Để cho anh trai tráng được gần người gái quê”.
(“Quê Nghèo”, Quảng Bình, 1948)
Cái Tôi yêu quê hương, đất nước ấy thành tiếng gọi thiết tha “Chiều ơi!”. Tiếng gọi chiều là tiếng gọi tự đáy lòng, tiếng gọi vọng vào vách núi, tiếng gọi vọng theo người quảy lúa, tiếng gọi vọng về lúc yên vui. Đó còn là tiếng gọi vọng vào hồn núi, hồn quê một thuở:
“Chiều ơi! Lúc chiều về mọc ánh trăng tơ
Cho ngày mùa bài hát nên thơ, ơi chiều
Chiều ơi! Mái nhà sàn thở khói âm u
Cô nàng về để suối tương tư, ới chiều
Chiều ơi! Biết chiều nào còn đứng trên nương
Phố phường nhiều chiều vắng quê hương, ới chiều
Chiều ới! Chiều ơi! Chiều ơi!”
(“Nương Chiều”, Lạng Sơn, 1947)
Cái Tôi yêu nước ở Phạm Duy rất đặc biệt. Bởi, ngoài những bài ca mang đượm hồn quê hương đất nước, còn có hai trường ca để lại dấu ấn sâu đậm với người yêu nhạc không những bởi giai điệu phong phú, đa dạng, mà còn có lời ca mang đậm hồn nước vừa dân dã vừa trang trọng, vừa gần gũi vừa thiêng liêng. Đó là trường ca “Con Đường Cái Quan” (Sài Gòn, 1960) và trường ca “Mẹ Việt Nam” (Sài Gòn, 1964).
Chính hai trường ca này cho người yêu nhạc cảm nhận được Cái Tôi yêu nước của Phạm Duy quả là đặc biệt. Phạm Duy từng viết: “Tôi đã chủ trương những cuộc lên đường trong âm nhạc… thì còn cuộc lên đường nào thú vị hơn là đường đi vào quê hương với những trường ca?
Trường ca CON ĐƯỜNG CÁI QUAN được thai nghén từ 1954, vừa lúc các cường quốc vừa chia đôi nước Việt Nam ra thành hai miền Quốc – Cộng với bản Hiệp Định Geneve. Tôi đang đi học nhạc tại Paris và bằng trường ca này, tôi phản đối sự chia cắt đó. Vào năm 1960, tôi hoàn tất phần còn lại của trường ca CON ĐƯỜNG CÁI QUAN.
Nếu CON ĐƯỜNG CÁI QUAN là một hành ca ghi lại bước tiến của dân tộc ta trên một sinh lộ nhất quyết không chịu chia cắt thì MẸ VIỆT NAM là một âu ca, ca tụng Mẹ Tổ Quốc và những Mẹ điển hình trong truyền kỳ lịch sử nước nhà, đề tài và cảm hứng nhắm dựa vào tình thương yêu và tính hiếu hòa, tính tình này đã sinh tồn mạnh mẽ trên đất ta và phải được truyền đi trong thế giới tàn nhẫn hiện tại.
Đây là một trường ca trong đó, lúc trẻ tuổi, Mẹ Việt Nam được biểu tượng bằng đất màu tươi tốt, đa tình, nền tảng của gia đình, ruộng nương, làng nước. Khi đứng tuổi Mẹ hiện thân là núi non sắt đá, trong sự hy sinh ròng rã, vẫn bền bỉ đợi chờ và che chở cho người chinh phu chưa hết nợ binh đao. Mẹ còn âm thầm xót thương lũ con sông ngòi, có những đứa dại dột, hiếu thắng, phản bội Mẹ vì sự tranh giành lẫn nhau, gây oán hận phân chia, làm nát tan lòng Mẹ. Vào lúc tuổi già, Mẹ trở thành biển cả đại lượng bao dung, kêu gọi và ôm đón đàn con giang hồ, thành công hay thất bại. Nước mắt vui mừng của Mẹ gặp con bốc lên trời cao làm mây đầy đặn và ấm áp, bay đi rửa sạch địa cầu bằng ơn mưa móc, nối chặt chu kỳ trường ca MẸ VIỆT NAM” (“Một Đời Nhìn Lại – Ngàn Lời Ca”).
Cái Tôi yêu nước ở Phạm Duy qua lời ca, đó chính là sự sáng tạo nghiêm túc, đầy trách nhiệm với nền âm nhạc Việt Nam cũng như với Tổ quốc Việt Nam. Ý thức trách nhiệm là người Việt Nam thì phải có tiếng nói, hành động như thế nào với hiện tình đất nước Việt Nam lúc bấy giờ. Làm được những điều đó là sự chọn lựa của từng cá nhân, trong đó có Phạm Duy. Bởi theo S. Freud thì Cái Tôi là thành tố của tính cách chịu trách nhiệm giúp con người xử trí với thực tại.
Bên cạnh đó, tôi còn bắt gặp Cái Tôi yêu đời, yêu người của Phạm Duy trong lời ca. Chỉ là lời ca viết cho con gái Thái Hiền hát, nhưng ở đó là cõi lòng của ông như trẻ thơ dành cho đời, cho người. Nào quê hương đẹp ngời cùng năm châu; nào là thương xá hay vỉa hè, nào là ngồi xe lam trên đường vui với biết bao là thú vị rộn tiếng yêu đời, yêu người:
“Bỗng dưng yêu đời! Bỗng dưng yêu đời!
Nhìn mây trăng trắng bay trên nền trời
Nhìn mây trăng trắng bay ra ngoài khơi
Bỗng dưng yêu đời! Bỗng dưng yêu đời!
…………………………………………..
Bỗng dưng yêu người! Bỗng dưng yêu người!
Từ nơi xóm vắng hay trên lộ đầy
Từ nơi phố đó hay trong làng đây
Bỗng dưng yêu người! Bỗng dưng yêu người!”
(“Tuổi Xuân”, 1973)
Cái Tôi yêu đời, yêu người trong nhạc Phạm Duy còn là những gì cụ thể. Không xa rời cuộc sống, Cái Tôi ấy của Phạm Duy cất lên lời ca ngợi bà mẹ quê tảo tần, “vất vả trăm chiều”, “nuôi một đàn con chắt chiu” (“Bà Mẹ Quê), ca ngợi hình ảnh “Em bé dân quê Việt Nam/ Là mầm non tươi thắm/ Sức mai sau xây đắp quê hương/ Cho nước giàu mạnh hơn” (“Em Bé Quê), ca ngợi cuộc sống yên bình của người nông dân: “Chàng vừa cày sâu vừa hứng mưa trên mái đầu/ Hái bông ngô vàng hay bới khoai nâu/ Nàng vừa cuốc bẫm, tắm trong sương sớm/ Tát xong nước rồi, sẽ về thổi cơm/ Chữ i móc ngược, o o ó o tròn/ Còn trong một nước ứ ư/ Người người ơi, ta còn yêu nhau/ Người người ơi, ta đừng bỏ nhau” (“Vợ Chồng Quê”).
Còn đây là Cái Tôi yêu đời, yêu người qua những việc bình thường. Chính những thứ thường thường ấy làm nên điều kỳ diệu của tâm hồn. Chuyện kể, có lần Phạm Duy hồi hương, đi thăm miền Hậu Giang. Trên chuyến phà qua sông, ông nghe tiếng mời mua vé số. Trước mắt ông là cô bé bán vé số thật xinh: “Guốc mộc áo lành không rách/ Mắt tròn trong sáng và to/ Má em hoe và môi em đỏ/ Mái tóc dày mùi tóc thơm tho/ Với chiếc kẹp tóc thơm tho”. Ông móc túi ra, tặng cho em chút quà không nhỏ. Thế nhưng, em bé lắc đầu, bởi em không muốn xin tiền người. Thế là ông phải mua một lúc 20 tờ, dù chẳng tin vào xổ số. Em bé rất vui! Và thật bất ngờ, như một truyện ngắn với chi tiết đắc, gây ấn tượng ở phần cuối. Chỉ có lòng trân trọng, yêu quý con người và cuộc đời mới có kết thúc đẹp, lắng đọng hồn người như vậy:
“Thế rồi phà tới bến quê
Thế rồi tôi bước lên xe
Bé thơ chạy tuốt lên bờ
Rút kẹp tóc ra, rút kẹp tóc ra.
Con tặng cho ông đó
Thế rồi tôi vẫn còn đi
Trên đường giang hồ đây đó
Mang theo hương vị quê mùa.
Hương nồng tự đất quê ta
Đến từ kẹp tóc em thơ
Chiếc kẹp tóc thơm tho”.
(“Chiếc Kẹp Tóc Thơm Tho”)
Cái Tôi yêu đời, yêu người trở thành máu thịt được truyền từ Mẹ Việt qua nhạc Phạm Duy. Cái Tôi ấy có khác chi tinh thần: “Xin yêu mãi yêu và yêu nhau mãi/ Trần gian ôi! Cánh bướm cánh chuồn chuồn/ Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại/ Con vi trùng sâu bọ cũng yêu luôn” (“Phụng Hiến”, Bùi Giáng). Cái Tôi ấy có khác chi tiếng gọi đồng bào từ thuở sinh ra từ bọc Mẹ Âu Cơ:
“Trời cho anh được hơn muôn thú
Sinh ra đời với kiếp con người
Trời cho anh bộ tim khối có
Cho linh hồn, cho biết buồn vui.
Mẹ cho anh còn hơn thế nữa
Cho tấm lòng không thiếu không thừa
Niềm vui hay niềm đau thấp thoáng
Anh yêu người, giun dế còn thương”.
(“Tình Nhân Loại, Nghĩa Đồng Bào”)
Yêu đời, yêu người, bởi đời và người luôn luôn cho ta nhiều thứ quý giá ở cõi người. Bởi đời và người tốt đẹp trong thế gian này ban ơn cho chúng ta biết bao điều. Do thế, yêu đời, yêu người như là bổn phận của chúng ta như là sự biết ơn. Đã là người không ai thoát được bổn phận ấy trong cõi đời:
“Ôi ơn đời chói vói
Nhớ khi thân tròn ôm gối
Ba trăm ngày trong gói
Ngóng trông ra đời góp mối chung vui
Ôi ơn đời mãi mãi
Thoát thai theo đời vun xới
Bao nhân tình thế giới
Lớn lên trong vườn ái ân muôn đời”.
(“Tạ Ơn Đời”, Sài Gòn, 1959)
Ngoài ra, trong lời ca của Phạm Duy bộc lộ Cái Tôi khát vọng tự do. Bởi “Tự do đáng để trả giá” (Jules Verne), tự do là thứ quý nhất trên đời. Khát vọng tự do có trong lời ru con: “À ơi, con ngủ u ù cho muồi/ À ơi, cười vui trong giấc mộng/ À à ơi! Yêu đời tự do/ À à ơi, à à ơi! À à ơi, à à ơi!” (“Vợ Chồng Quê”). Cũng có cả trong lời xưng tụng ngợi ca: “Việt Nam đây miền xinh tươi/ Việt Nam đem vào sông núi/ Tự do công bình bác ái muôn đời” (“Việt Nam! Việt Nam!”). Và có cả trong lời nguyện cầu: “Tình nhân loại, nghĩa đồng bào/ Tránh cho nhau máu chảy ruột đau/ Tránh cho nhau máu chảy ruột đau/ Gọi nhân loại, cứu đồng bào/ Đang kêu to: Tự do yêu dấu/ Gọi nhân loại, cứu đồng bào/ Sống yên vui dưới mặt trời cao/ Sống yên vui dưới mặt trời cao” (“Tình Nhân Loại, Nghĩa Đồng Bào”).
Không những thế, trong nhạc Phạm Duy, lời ca còn thể hiện Cái Tôi ước mơ. Đã là người, theo tôi nghĩ, ai cũng có mơ ước. Mơ ước giúp con người hy vọng vào cuộc sống, tin vào tương lai. Một cuộc sống buồn tênh bởi kiếp nghèo, bởi hoàn cảnh vẫn không ngăn được niềm ước mơ về cuộc sống an lành:
“Đường về trong mơ đêm đêm phố lớn thênh thang
Ánh sáng kinh kỳ tràn lan
Đời nghèo không riêng thương yêu bóng dáng Xuân sang
Yêu phố vui, nhà gạch ngon
Đèn đêm không soi bóng vắng
Kinh đô thắc mắc
Im nghe phố buồn
Người đi trong đêm tối ám
Nghe mưa thức giấc
Khuyên nhau chờ mong”.
(“Phố Buồn”, Sài Gòn. 1954)
Cái Tôi ước mơ còn thể hiện về một thời chấm dứt chiến tranh, hòa bình được trở về trên đất Mẹ Việt Nam để cho người con được một lần hát ru cho Mẹ giấc ngủ an lành. Quả là đẹp, bởi có gì đẹp hơn khi con nhìn Mẹ yên bình trong lời ru của con:
“Mẹ năm mươi tuổi chiến tranh
Con hai mươi tuổi, Hòa Bình về chơi
Từ lâu súng nổ vang trời
Hôm nay yên lặng cho đời ngẩn ngơ
Mẹ tôi giấc ngủ khó khăn
Xưa nay ru mẹ toàn bằng đạn bom
Mẹ ơi! Giâc ngủ muộn màng
Con xin ru mẹ một ngàn lời ru”…
(“Ru Mẹ”, Sài Gòn, 1972)
Cái Tôi ước mơ trong nhạc Phạm Duy luôn trong sáng. Đành rằng ước mơ suy cho cùng cũng chỉ là ham muốn, có tính dục, libido. Nhưng ở đây, Cái Tôi ước mơ ấy như được soi sáng bởi Cái Siêu Tôi để ước mơ càng thêm đẹp. Ước mơ của người bình thường là ước mơ có tiền có bạc để có cuộc sống sung túc, ước mơ thành nghệ sĩ để có tiếng tăm. Tất cả là ước mơ vì lợi danh. Thế nhưng, trong nhạc Phạm Duy, ước mơ giàu có, không phải chỉ để mình hưởng thụ; ước mơ thành nghệ sĩ là để cống hiến cho đời. Ước mơ đẹp như thế quả là đáng ngợi ca:
“Cho tôi lại một mùa mưa rơi buồn ngoại ô
Đêm đêm đèn trong ngỏ soi sáng mảnh tim khô
Tôi mơ thành triệu phú cứu vớt gái bơ vơ
Tôi mơ thành thi sĩ đem thơ dệt mộng hờ”.
(“Kỷ Niệm”, Sài Gòn, 1966)
Tôi từng đọc bài thơ “Mao Ốc Vị Thu Phong Sở Phá Ca” (“Bài Ca Nhà Tranh Bị Gió Thu Phá) của Đỗ Phủ (712-770) trong đó có đoạn: “An đắc quảng hạ thiên vạn gian/ Đại tí thiên hạ hàn sĩ câu hoan nhan/ Phong vũ bất động an như san/ Ô hô, hà thời nhãn tiền đột ngột kiến thử ốc/ Ngô lư độc phá thụ đống tử diệc túc” (tạm dịch: Ước sao có được nhà rộng muôn ngàn gian/ Giúp cho các hàn sĩ trong thiên hạ đều vui/ Gió mưa chẳng kinh động, vững như núi non/ Hỡi ôi, bao giờ thấy nhà ấy sừng sững trước mắt/ Riêng nhà ta bị phá nát, chịu rét đến chết cũng cam lòng). Ước mơ đó thể hiện Cái Tôi nhân đạo cao cả của Đỗ Phủ. Ông xứng là Thi Sử, Thi Thánh như người đời ca ngợi. Còn Phạm Duy lại có ước mơ trong khi đất nước đau thương, đói nghèo, buồn khổ là “mơ thấy trăm họ tốt tươi”, “mơ thấy bên lề cuộc đời” đôi lứa rạng ngời yêu thương, mọi người đùa vui trong nắng đẹp. Uớc mơ của Phạm Duy, theo tôi, cũng cao cả, xứng đáng được ngợi ca:
“Từ khi đau thương lan tràn sông núi
Quê cũ đã nghèo lắm rồi
Thêm đói thêm sầu mà thôi.
Nằm mơ, mơ thấy trăm họ tốt tươi
Mơ thấy bên lề cuộc đời
Áo dài đùa trong nắng cười”…
(“Quê Nghèo”, Quảng Bình, 1948)
Theo Sigmund Freud thì Cái Tôi là một phần của tính cách có nhiệm vụ điều chỉnh những nhu cầu của Cái Nó, Cái Siêu Tôi và đời sống thực. Theo đó có nghĩa là nhu cầu về tình yêu là nhu cầu đích thực cần phải tồn tại. Nhu cầu đó vừa thuộc vào Cái Nó vừa thuộc vào Cái Siêu Tôi. Mặt khác, không có nhu cầu về tình yêu trong cuộc sống thì, một là Cái Nó trở thành nhu cầu, khi đó tình yêu không có mà chỉ là sự tương tác của quan hệ xác thịt, hai là Cái Siêu Tôi trở thành nhu cầu, khi đó tình yêu chỉ là những thứ thuần túy trên đầu môi, chót lưỡi, và khi đó đời sống thực cũng chẳng là gì. Bởi vậy, những bản nhạc tình của Phạm Duy, theo tôi đã thể hiện trọn vẹn Cái Tôi trong tình yêu. Đó là Cái Tôi đa tình có trong lời ca của Phạm Duy. Bởi “Cái tình là cái chi chi/ Dẫu chi chi cũng chi chi với tình” (“Vịnh Chữ Tình”, Nguyễn Công Trứ). Cái nòi đa tình thời nào cũng có. Không có cái nòi ấy, thì làm gì có những vần thơ, bài hát ca ngợi tình yêu trai gái. Không có Cái Tôi đa tình trong âm nhạc thì làm gì có những tác phẩm để đời, cho người yêu nhạc thưởng thức. Chính Cái Tôi này góp phần làm nên những tình khúc trong dòng nhạc tình của Phạm Duy. Từ bản nhạc bước đầu trong sự nghiệp sáng tác như “Cô Hái Mơ” (1942), phổ thơ Nguyễn Bính, rồi trong những năm đi theo kháng chiến, Phạm Duy cũng không quên soạn nhạc tình, nhưng thứ tình ở đây, theo ông, là “thứ tình ca ấp úng”:
“Người ôi! Tôi thường hay muốn biết
Với tình hoa thắm thiết
Yêu tôi hay yêu đàn?
Yêu tôi hay yêu đàn?
Tình tang tính tính tình tang”.
(“Cây Đàn Bỏ Quên”, Phan Rang, 1945)
Rồi “thứ tình ấp úng” ấy cũng qua đi. Nhưng trong lòng của Phạm Duy nào dứt được tình. Cái Tôi đa tình lại trổi dậy để rồi sản sinh ra những bản nhạc tình khác. Đó là thứ tình cảm khát khao của đôi lứa yêu nhau, cần có nhau để tồn tại trong cõi nhân gian:
“Ngày đó có em đi nhẹ vào đời
Và mang theo trăng sao đến với lời thơ nuối
Ngày đó có anh mơ lại mộng ngời
Và se tơ kết tóc giam em vào lòng thôi.
Ngày đôi ta vui tiếng hát vói đường dài
Ngâm khẽ tiếng thơ, khơi mạch sầu lơi (ý y y)
Ngày đôi môi đôi môi đã quyết trói đời người
Ôi những ngón tay đan vòng tình ái (ớ ơ ờ)”.
(“Ngày Đó Chúng Mình”, Sài Gòn, 1959)
Đó còn là thứ tình cảm quyến luyến từ thuở yêu nhau đến cuối cuộc đời. Tình cảm ấy chỉ có được khi cả hai người thuộc về nhau, luôn nghĩ về nhau, yêu nhau, trân trọng nhau vì cuộc tình hiện hữu, và vì đến muôn đời sau. Xin đừng nói tiếng xót xa, xin đừng oán trách, xin đừng cay đắng cho nhau mà hãy vì tình yêu như thuở mộng mơ ban đầu:
“Đừng xa nhau! Đừng quên nhau!
Đừng dứt tiếng ngậm sầu,
Đừng im hơi đắng cay rời nhau.
Đừng đi mau, để mãi mãi,
Là chiếc bóng đậm màu
Còn theo nhau tới muôn đời sau”.
(“Đừng Xa Nhau”, Sài Gòn, 1958)
“Còn theo nhau tới muôn đời sau”, theo nhau mãi bởi tình yêu đâu dễ gì quên. Đâu dễ gì quên “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” (Thế Lữ). Đâu dễ gì quên cuộc tình thơ mộng, dư âm ngọt ngào còn mãi vấn vương. Đâu dễ gì quên ánh mắt long lanh, nụ cười hiền quá đỗi thuở yêu nhau. Vẫn luôn nhớ về nhau dù tình lỗi hẹn:
“Trăm năm dù lỗi hẹn
Nghìn năm vẫn không quên
Vẫn nhớ y nguyên”.
(“Ngàn Năm Vẫn Chưa Quên”, California, 1983)
Cái Tôi đa tình trong nhạc Phạm Duy còn là sự đau khổ khi tình yêu không còn, là sự tuyệt vọng đích thực khi cuộc tình tan vỡ. Có chăng còn lại nỗi đau tột cùng dẫu ngóng trông nhau mà chẳng thấy hình bóng của nhau. Dẫu tưởng nhớ về nhau thì chỉ là nỗi đau âm ỉ trong lòng. Có khóc cũng chẳng vơi bớt nỗi sầu thương nhớ, có gọi thầm tên nhau cũng chẳng là gì của nhau:
“Còn gì nữa đâu mà phải khóc nhau
Có đi theo mùa ngâu tới suối reo nghìn thâu
Tình chôn đã lâu
Còn gì nữa đâu mà kể với nhau
Vết thương đau ngày nào
Có sống bao đời sau thì đã mất nhau
Còn gì nữa đâu mà gọi mãi nhau”.
(“Còn Gì Nữa Đâu”, Sài Gòn, 1960)
Từ chỗ đa tình đến chỗ dại tình chỉ trong tấc gang. Đa tình quá nên phải dại tình thôi. Đó là lẽ đương nhiên. Cái dại trong tình yêu chỉ một mình biết một mình mình hay, chớ bày tỏ cùng mọi người cũng chẳng ích gì. Thôi thì, cứ hát một mình, ai hiểu được chừng nào hay chừng nấy, ai thông cảm, đồng cảm thì cứ hát cho bớt nỗi đau tình. Coi như tình yêu có chỗ trong lòng thiên hạ. Bởi tình yêu giờ chẳng còn, chỉ là sự cách xa, chia lìa đôi lứa. Có chăng chỉ là dư âm của cuộc tình đã lỡ và lời cầu chúc ai kia hạnh phúc:
“Nghìn trùng xa cách đời đứt ngang rồi
Còn lời trăn trối gửi đến cho người…
Nghìn trùng xa cách người cuối chân trời
Đường dài hạnh phúc, cầu chúc cho người.”
(“Nghìn Trùng Xa Cách”, Sài Gòn, 1969)
Người đời thường nói không có cái dại nào giống cái dại nào. Điều đó đúng với cái dại tình trong nhạc Phạm Duy. Bởi cái dại tình trong nhạc Phạm Duy đẹp ở chỗ cứ vương hoài cuộc tình của tuổi thư sinh. Cái dại tình ấy đáng yêu làm sao! Ai từng qua cái dại tình ấy? Theo tôi, có nhiều lắm, Cái dại ấy của những ai từng cắp sách đến trường, của những ai từng đếm bước chân của mình trên con đường bình yên và của những ai một thời say đắm yêu nhau:
“Con đường mộng hoa xưa, vẫn từng đôi từng lứa
Con đường vào mộng mơ, con đường mặn mà
Hỡi người tình Văn Khoa, bóng người trên hè phố
Lá đổ để đưa đường, hỡi người tình Trưng Vương
Hỡi người tình Gia Long, hỡi người trong cuộc sống
Con đường này xin dâng cho người bình thường
Hỡi người tình xa xăm, có buồn ra mà ngắm
Con đường thảnh thơi nằm nghe chuyện tình quanh năm”.
(“Con Đường Tình Ta Đi”, Sài Gòn, 1970)
Có cái dại tình nào hơn khi trả hết những gì khi yêu nhau? Nào là trả lại khung trời đại học thuở yêu nhau, trả lại những buổi chiều vương vấn tình, trả lại những bước chân tìm nhau vồi vội, nào là trả lại hết khoảng trời mùa hạ vấn vương nỗi buồn cư xá, trả lại cả giọt mưa trên má, trên tóc, trên cả dáng hiền hòa. Trả lại tất cả: hẹn hò đôi lứa và cả môi mềm dịu ngọt cho em:
“Trả lại em yêu mối tình vời vợi
Ngôi trường thân yêu, bạn bè cũ mới
Đừng buồn anh đi bao giờ cho tới?
Nỗi đau cao vời, nỗi đau còn dài
Trả lại em yêu! Trả lại em yêu!
Mây trời xanh ngắt”…
(“Trả Lại Em Yêu”, Sài Gòn, 1971)
Ngoài ra Cái Tôi đa tình còn được thể hiện bởi cái tình đam mê, nồng cháy. Cái tình đam mê, nồng cháy ấy là một phần của Cái Nó được điều chỉnh, bởi theo Freud thì “Cái Tôi chính là bộ phận của Cái Nó đã được điều chỉnh bởi tác động trực tiếp từ thế giới bên ngoài”. Do thế, không thể không đam mê, nồng cháy khi tình tay trong tay, môi trong môi, khi anh cùng em đi vào cõi mộng, khi anh rước em lên đồi tiên có cỏ mềm đọng giọt sương trinh nguyên chờ nắng sớm cho tình thơm như cỏ hồng, tình ngoan như tình nồng. Và cái tình đam mê, nồng cháy ấy để cho đất trời chứng giám:
“Níu em trên đồi, cỏ thơm mùi sữa
Níu em yêu ngồi trên bãi cỏ non
Giương đôi tay ôm thân tròn ơn mưa móc
Hãy xõa mái tóc, rũ trên vai anh mòn
Đồi quen quen, cỏ ngoan ngoan, tưởng mơn man làn tóc rối mềm
Rồi nghe thêm lời van xin
Từ trong tim hoặc dưới suối tiên, ngã êm êm trên cỏ hoang
Trời trong em, đồi choáng váng, rồi run lên cùng gió bốn miền”.
(“Cỏ Hồng”, Đà Lạt, 1970)
Cái tình đam mê, nồng cháy ấy có khác chi cánh phượng hồng rực rỡ khoe màu tình ái vang lên tiếng yêu đương thổn thức của con tim mù lòa bằng tiếng nói đơn sơ, bằng gió núi qua khe, bằng cơn mơ rụt rè, bằng tiếng hát yêu tinh của loài ma quái:
“Yêu người, yêu có một lần thôi
Xin yêu, dù gian dối
Xin yêu tôi, dẫu nghi ngờ
Khi bơ vơ còn nhiều
Thì đâu chối bỏ tình yêu”.
(“Phượng Yêu”, Sài Gòn, 1970)
Và đam mê, nồng cháy hơn trong tình yêu là được sống cho nhau, dâng hiến cho nhau như mùa hè nung tình yêu lửa cháy, thiêu đốt cả đất trời để con tim tỏa nắng nhuộm hồng cả trăng sao. Tình yêu lên ngôi, tình yêu làm đất trời tỉnh giấc, đưa đôi lứa yêu nhau như thuở hồng hoang. Địa đàng bừng dậy:
“Mùa hè thiên nhiên như tỉnh giấc
Mùa hè đưa ta tới hồng hoang
Trần truồng yêu nhau trong trời đất
Mùa hè của uyên ương.
Đôi ta chỉ có một mùa hè thôi
Đôi ta chỉ có một cuộc tình thôi”…
(“Hạ Hồng”, Sài Gòn, 1972)
Cái Tôi trong lời ca của Phạm Duy còn nhiều lắm. Nhiều như di sản âm nhạc của ông để lại cho đời. Nhiều như những đắng cay, tủi nhục, những hạnh phúc, sướng vui… đi qua đời ông.
Qua một số lời ca, một Phạm Duy còn lại cho đời là vậy!
Xin mượn lời của ông để kết thúc bài viết này: “Dù sao tôi cũng đang sống một cuộc đời phỉ nguyện. Tôi đã có đầy đủ vinh quang và tủi nhục (vì một sì-căng-đan về tình), hạnh phúc và khổ đau. Tôi cũng nói khá nhiều về cái chết. Coi như đã được sống tới tận cùng của cuộc sống…” (“Một Đời Nhìn Lại – Ngàn Lời Ca”).
Tháng 8/ 2020

Phan Trang Hy 

Huy Tưởng

  Chiều tĩnh vật   Chiều đã ngấm sâu dưới mái Em nghe không chất ngất tiếng hoàng hôn giập vỡ những cánh mây hiền giả những kè đá cam lò...