KHALIL GIBRAN - ĐỊNH MỆNH CỦA THI SĨ
Nguyễn Ước dịch
Tiếng nói của một thi
sĩ
1.
Trong lòng tôi gieo rất sâu sức
mạnh của hạt giống từ tâm; tôi gặt lúa, gom thành từng bó và đem cho người đang
đói.
Linh hồn tôi cung cấp sự sống
cho cành nho, tôi ép các chùm quả lấy nước cho người đang khát.
Ngọn đèn của tôi trời châm đầy
dầu, tôi đặt nó nơi cửa sổ nhà mình để người lạ biết hướng đi qua bóng tối.
Hết thảy những điều đó tôi làm
vì tôi sống trong chúng; nếu định mệnh trói đôi tay tôi, ngăn không để tôi làm
như thế, lúc ấy nỗi khao khát độc nhất của tôi là cái chết. Vì tôi là thi sĩ,
nếu chẳng thể cho đi, tôi sẽ không chịu nhận vào.
Loài người nổ bùng cơn thịnh nộ
như bão tố, còn tôi, tôi im lặng thở dài vì tôi biết giông bão sẽ qua đi còn
tiếng thở dài thấu tới Thượng đế.
Bản tính loài người là bám víu
những điều tục lụy, còn tôi, tôi mải miết ôm ấp ngọn đuốc tình yêu để lửa của
nó thanh tẩy tôi và để đốt sạch khỏi lòng tôi tính bất nhân.
Những điều thực tiễn trong cuộc
đời làm con người lìm lịm chết không chút khổ sở, nhưng tình yêu đánh thức y trỗi
dậy bằng những đau đớn bồi hồi.
Loài người phân chia thành dòng
giống và bộ tộc, thành xứ sở và thị trấn, còn tôi, tôi thấy mình là người lạ
đối với mọi cộng đoàn và tôi không thuộc về một chốn cư ngụ nào.
Vũ trụ là xứ sở tôi và gia đình
loài người là bộ tộc tôi.
Loài người yếu ớt, và buồn biết
mấy khi ngay giữa họ có phân rẽ. Thế giới này hẹp, và chẳng khôn chút nào khi
chia cắt thành các vương quốc, đế quốc và nước này tỉnh nọ.
Bản tính loài người khiến họ tự
hiệp nhất là chỉ để phá hủy các đền đài của linh hồn, và để nối tay nhau xây
nên dinh thự cho các cơ quan trần thế. Còn tôi, tôi đứng cô đơn lắng nghe từ
trong sâu thẳm lòng mình vọng lên tiếng nói: “Khi tình yêu bằng những đớn đau
làm sống động trái tim nhân thế thì vô minh dạy cho con người sự am hiểu”. Ðớn
đau và vô minh dẫn tới hoan lạc cao thượng và hiểu biết sâu xa, vì Ðấng tối cao
chẳng tạo ra điều gì vô ích dưới ánh mặt trời.
2.
Lòng tôi ao ước nhiều điều cho
xứ sở xinh đẹp của mình và hồn tôi yêu thương người dân quê hương vì những khốn
cùng của họ. Nhưng nếu dân tôi vùng lên do lòng cướp bóc khích động và do cái
gọi là “tinh thần yêu nước” thúc bách, để giết người và để xâm lăng xứ sở láng
giềng, lúc ấy, vì tội ác độc dữ đối với con người đó, tôi sẽ căm ghét dân tôi
cùng xứ sở tôi.
Tôi ca vang lời tán tụng nơi
mình cư ngụ và khát khao thấy lại nơi mình chào đời; nhưng nếu hai nơi ấy không
chịu làm chỗ trú ẩn và từ khước cung cấp lương thực cho người lữ thứ, tôi sẽ
bằng tiếng nói trong lòng mình biến lời tán tụng ấy thành cơn căm giận và nỗi
khát khao ấy thành niềm quên lãng. Tiếng lòng tôi sẽ vang lên: “Vì ngôi nhà này
không làm mãn nguyện người đang cần tới, nên nó đáng bị hủy diệt”.
Tôi yêu làng quê trong tình tôi
yêu đất nước, tôi yêu đất nước trong tình tôi yêu quả đất và mọi miền quả đất
đều là xứ sở của tôi. Tôi yêu quả đất bằng những gì tôi có vì đó là nơi nương
náu của loài người, tinh thần biểu thị của Thượng đế.
Loài người là tinh thần của
Ðấng Tối cao nơi trần thế và loài người đang đứng giữa những điêu tàn không thể
thấy, đang che giấu mọi trần truồng của nó đằng sau các miếng giẻ tả tơi, đang
tuôn dòng nước mắt trên đôi má hóp, đang kêu gọi con cái bằng tiếng nói xót
thương. Nhưng con cái của nó đang bận rộn hát quốc ca, đang bận rộn mài sắc
lưỡi kiếm và chẳng thể nào nghe ra tiếng gào la của mẹ mình.
Loài người khẩn thiết van xin
con dân của nó nhưng chúng chẳng lắng nghe. Nếu kẻ này nghe ra, ủi an và lau
nước mắt cho mẹ mình, kẻ kia sẽ nói “Lòng nó yếu mềm bị tình cảm tác động”.
Loài người là tinh thần của
Ðấng Tối ca nơi trần thế, và Ðấng Tối cao giảng dạy tình yêu cùng thiện chí.
Nhưng dân chúng chế giễu lời rao giảng ấy. Giêsu Người Nadarét đã lắng nghe, và
cuộc đóng đinh là phần số của ngài; Socrates đã lắng nghe và rồi cũng chịu thua
hết thảy. Môn đệ của Người Nadarét và Socrates đều là những kẻ đi theo của
Thượng đế, và vì dân chúng sẽ không giết họ, chỉ nhạo báng họ, nên có lời nói
rằng: “Nhạo báng thì đắng cay hơn giết chết”.
Giêrusalem không giết nổi Người
Nazareth, Athens cũng chẳng giết nổi Socrates: cả hai đang sống và sẽ sống mãi.
Nhạo báng không thể chiến thắng những người đi theo Thượng đế vì họ vẫn sống và
gia tăng lên mãi.
3.
Bạn là người anh em của tôi vì
tôi thương yêu bạn; cả hai chúng ta đều là con của một Tinh thần độc nhất;
chúng ta chẳng ai hơn ai và được làm thành bởi cùng một thứ đất.
Bạn ở đây làm người cùng tôi
chung bước trên lối đi cuộc đời và bạn là kẻ giúp cho tôi am hiểu ý nghĩa của
Chân lý ẩn mật. Bạn là con người, với tôi thực tế ấy là đủ, và tôi thương yêu
bạn như người anh em của tôi. Bạn có thể nói về tôi bằng những lời do bạn chọn
vì Ngày mai sẽ đem bạn đi mãi mãi và sẽ dùng lời luận bàn của bạn làm bằng
chứng xét xử, và lúc đó bạn tiếp nhận công lý.
Bạn có thể lấy đi mọi thứ tôi
sở hữu vì những của cải tích lũy ấy do bởi lòng tham xúi giục tôi, và bạn có
quyền có tất cả những cái ấy của tôi nếu chúng sẽ làm mãn nguyện bạn.
Bạn có thể đối xử với tôi bằng
mọi cách bạn muốn nhưng bạn chẳng thể nào chạm tới Chân lý của tôi.
Bạn có thể làm đổ máu tôi và
thiêu rụi thể xác tôi nhưng bạn chẳng thể nào tiêu diệt hay làm tổn thương tinh
thần tôi.
Bạn có thể xiềng tay tôi, cùm
chân tôi và tống tôi vào nhà ngục tối tăm, nhưng bạn chẳng thể nào biến tư duy
của tôi thành nô lệ vì nó tự do, tựa làn gió mát giữa trời cao rộng.
Bạn là người anh em của tôi và
tôi thương yêu bạn. Tôi thương yêu bạn khi bạn dâng lễ trong nhà thờ, khi bạn
bái lạy trong đền chùa, khi bạn nguyện cầu trong thánh đường Hồi giáo. Bạn và
tôi đều là con cái của một tín ngưỡng vì mọi lối đi muôn hình muôn vẻ của tôn
giáo chỉ là các ngón của bàn tay thương yêu Ðấng Tối cao xòe ra cho hết thảy
sinh linh, cống hiến một tổng thể tinh thần cho hết thảy và khắc khoải nhận vào
hết thảy.
Tôi thương yêu bạn vì Chân lý
của bạn bắt nguồn từ am hiểu của bạn và vì sự ngu dốt của mình nên tôi không
thể thấy Chân lý đó. Nhưng tôi tôn kính nó như một điều thiêng liêng do bởi nó
là một hành động của tinh thần. Chân lý của bạn sẽ gặp Chân lý của tôi trong
thế giới đang đến, rồi cùng nhau hòa lẫn như hương thơm của các đóa hoa, và trở
thành Chân lý toàn bộ và miên viễn, thẩm thấu và sống động trong vĩnh cửu của
Tình yêu và Cái đẹp.
Tôi thương yêu bạn vì bạn yếu
đuối trước kẻ áp bức mạnh bạo, và bạn nghèo khó trước kẻ giàu có tham lam. Các
nguyên cớ ấy làm tôi ứa nước mắt vỗ về bạn; và từ đằng sau những giọt lệ, tôi
thấy cánh tay Công lý ôm ấp bạn và bạn đang nở nụ cười tha thứ kẻ áp bức mình.
Bạn là người anh em của tôi và tôi thương yêu bạn.
4.
Bạn là người anh em của tôi
nhưng cớ sao bạn tranh chấp với tôi, cớ sao bạn xâm lăng đất nước tôi và cớ sao
bạn ra sức khuất phục tôi để làm vừa lòng kẻ đang tìm kiếm vinh quang và quyền
lực?
Cớ sao bạn để lại vợ con mình,
đi theo Thần chết tới vùng đất xa xăm vì kẻ mua vinh quang bằng máu của bạn và
danh dự bằng nước mắt của mẹ bạn?
Có phải đối với con người, danh
dự là giết chết người anh em của mình? Nếu cho rằng đó là danh dự, bạn hãy xem
nó như một hành động lễ bái, và hãy dựng lên một đền thờ cho Cain, kẻ cuồng sát
Abel em mình.
Có phải sự tự bảo tồn là định
luật thứ nhất của thiên nhiên? Vậy cớ sao tham lam xúi giục bạn hiến thân chỉ
để thành tựu mục đích của nó trong hành động làm thương tổn anh em mình? Người
anh em của tôi ơi, hãy đề phòng kẻ lãnh đạo nào nói: “Tình yêu cuộc sinh tồn
buộc chúng ta phải tước bỏ quyền của dân chúng!” Tôi chỉ nói với bạn rằng: bảo
vệ quyền của người khác là hành động nhân tính cao nhã nhất và đẹp đẽ nhất; nếu
cuộc sinh tồn đòi hỏi tôi phải giết kẻ khác, thế thì cái chết là vinh dự hơn
cho tôi, và nếu tôi không tìm được ai đó giết tôi để tôi bảo vệ danh dự cho
mình, lúc đó tôi sẽ không ngại ngần, bằng chính bàn tay tôi, lấy đi sự sống của
mình vì Vĩnh cửu trước khi Vĩnh cửu đến.
Hỡi người anh em của tôi, tính
ích kỷ là nguyên cớ của lòng tự tôn mù lòa, và lòng tự tôn tạo ra tinh thần phe
đảng và tinh thần phe đảng tạo ra thẩm quyền, cái dẫn tới bất hòa và tranh
giành quyền kiểm soát.
Linh hồn tin rằng quyền năng
của am hiểu và công lý thì ở bên trên ngu dốt tối tăm; nó không chấp nhận thứ
thẩm quyền cung cấp gươm đao để phòng ngự, để củng cố vô minh và áp bức – thứ
thẩm quyền đã hủy diệt Babylon, lung lay nền móng Jerusalem và để cho La Mã
điêu tàn. Chính thứ thẩm quyền đó khiến dân chúng gọi các tên tội phạm là vĩ
nhân, khiến các nhà văn tôn trọng danh tính của chúng và khiến các sử gia kể
lại các câu chuyện bất nhân của chúng bằng bút pháp tán tụng.
Thẩm quyền duy nhất tôi vâng
phục chính là sự am hiểu, canh giữ và chấp nhận Ðịnh luật Tự nhiên của Công lý.
Thẩm quyền cho thấy công lý nào
khi nó giết chết kẻ giết người? Khi nó bỏ tù kẻ cướp bóc? Khi nó tấn công đất
nước láng giềng và giết người dân xứ ấy? Thẩm quyền nghĩ tới công lý nào khi kẻ
sát nhân trừng phạt kẻ giết người và kẻ cắp kết án kẻ trộm?
Bạn là người anh em của tôi và
tôi thương yêu bạn; và Tình yêu là công lý với đầy đủ cường độ và trọn vẹn phẩm
cách của nó. Nếu công lý ấy chẳng tiếp tay cho tình tôi thương yêu bạn bất chấp
bộ tộc và cộng đoàn của bạn, thì tôi chỉ là gã lừa đảo đang che giấu lòng xấu
xa ích kỷ đằng sau lớp giả trang tình yêu thuần khiết bên ngoài.
Khúc kết
Linh hồn tôi là bạn của tôi, ủi
an tôi trong cơn khốn khổ và ưu phiền của cuộc đời. Người không đối xử với linh
hồn mình như bè bạn, sẽ là kẻ thù của loài người, và người không tìm kiếm sự
hướng dẫn nhân tính từ nội tâm mình, sẽ bạt mạng tiêu vong. Sự sống xuất hiện
từ chính bên trong và bạn ơi, đừng rút tỉa nó từ những chốn loanh quanh bên
ngoài.
Tôi đến để nói một lời, và lúc
này tôi sẽ nói. Nhưng nếu cái chết ngăn không cho tôi nói, lời ấy sẽ được nói
Ngày mai vì Ngày mai không để lại bí mật nào trong cuốn sách Vĩnh cửu.
Tôi đến để sống trong vinh
quang của Tình yêu và ánh sáng của Cái đẹp, là những phản ánh của Thượng đế.
Tôi đang sống ở đây và người ta chẳng thể nào lưu đày tôi khỏi lãnh địa cuộc
đời bởi họ biết rằng tôi sẽ sống trong cái chết. Nếu họ khoét đi mắt tôi, tôi
sẽ lắng đôi tai nghe tiếng thầm thì của Tình yêu và những khúc ca của Cái đẹp.
Nếu người ta bịt kín tai tôi,
tôi sẽ vui hưởng hơi gió đang chạm nhẹ thịt da mình mang theo mùi hương hòa
quyện của Tình yêu và Cái đẹp.
Nếu người ta đặt tôi trong chân
không, tôi sẽ sống chung với linh hồn tôi, đứa con của Tình yêu và Cái đẹp.
Tôi đến đây cho hết thảy và với
hết thảy; và điều hôm nay tôi làm trong cô đơn Ngày mai sẽ vọng tới dân chúng.
Ðiều tôi nói hôm nay bằng con
tim mình sẽ được nói ngày mai bằng nhiều con tim.
Thi sĩ
Y là mối liên kết giữa thế giới
này và thế giới đang tới. Y là
Con suối tinh khiết mọi linh
hồn đang khát có thể uống.
Y là cây tưới bằng nước của
Dòng sông Cái đẹp, và
Sinh quả khiến tâm hồn đang đói
thèm thuồng.
Y là chim họa mi vỗ về những
tinh thần
Chán nản bằng giai điệu tuyệt
vời
Y là mây trắng xuất hiện đằng
chân trời,
Ðang bay lên giăng kín bầu trời
và tỏa xuống
Xâm nhập các đóa hoa trên Cánh
đồng Sự sống
Và khai mở cánh hoa để tiếp
nhận ánh sáng.
Y là thiên thần do thần nữ sai
đi
Rao giảng tin lành của Thượng
đế;
Y là cây đèn chói lọi, bóng tối
không thể khuất lấp
Và gió không thể thổi tắt. Y
được châm đầy dầu
Bởi thần nữ tình yêu Ishtar và
chiếu sáng bởi thần nam âm nhạc Apollon.
Y là nhân vật cô độc, khoác
chiếc áo đơn sơ và
Tử tế; Y ngồi trên lòng của
Thiên nhiên để lấy
Niềm cảm hứng, và trong im lặng
trời đêm,
Y sẵn sàng chờ đợi sự giáng lâm
của tinh thần.
Y là người đi gieo hạt giống
con tim mình trên
Các cánh đồng yêu thương, và
tới mùa
Loài người gặt về làm dưỡng
chất.
Ðây là thi sĩ – kẻ bị dân chúng
ngó lơ trong cuộc đời này,
Kẻ chỉ được thừa nhận sau khi
đã nói lời vĩnh biệt
Thế gian và trở về chốn im mát
trên trời.
Ðây là thi sĩ – kẻ đòi hỏi loài
người
Chỉ một nụ cười.
Ðây là thi sĩ – kẻ tinh thần
hướng lên cao và làm
Chan chứa bầu trời bằng những
lời đẹp đẽ;
Cho dẫu dân chúng phủ định hào
quang của y.
Cho tới khi dân chúng vẫn còn
say ngủ?
Cho tới khi họ tiếp tục vinh
danh
Các kẻ được tiếng vĩ nhân nhờ
những khoảnh khắc lợi thế?
Còn bao lâu nữa họ ngó lơ những
người làm cho họ
Có khả năng nhận thấy vẻ đẹp
của tinh thần họ,
Biểu tượng của bình an và tình
yêu?
Cho tới khi loài người vẫn vinh
danh kẻ chết
Và lãng quên người sống đang
trang trải
Cuộc đời khốn khổ bủa vây và tự
hút cạn mình
Như những ngọn đèn đang cháy để
soi lối
Cho những kẻ vô minh, dẫn họ
vào con đường sự sáng?
Này thi sĩ, bạn là sự sống của
cuộc đời, và bạn đang
Chiến thắng mọi thời đại bất
chấp chúng khốc liệt.
Này thi sĩ, sẽ có ngày bạn cai
trị các linh hồn và
Do đó vương quốc của bạn vô
cùng tận.
Này thi sĩ, hãy xem thật kỹ mũ
miện bằng gai ấy và bạn
Sẽ thấy ẩn giấu trong đó một
vòng nguyệt quế đang ra hoa.
Thi sĩ cô đơn
Tôi người lạ trên thế giới,
trong cuộc lưu đày này tôi hiu quạnh đớn đau và cô đơn trĩu nặng. Tôi một mình,
trong đơn độc tôi trầm tưởng một xứ sở không tên có nhiều thú vị, và chiêm ngắm
ấy làm đầy ắp các giấc mơ tôi với những bóng hình của một miền đất xa xôi diệu
kỳ mắt tôi chưa từng trông thấy.
Tôi người lạ giữa dân tộc mình
và chẳng có ai bầu bạn. Khi gặp một người, tôi thì thầm với tôi: “Kẻ này là ai
và bằng cách nào tôi biết tới y, tại sao y lại ở đây và tôi cùng y qua lại với
nhau theo phép tắc nào?”
Tôi người lạ với chính tôi. Khi
nghe lưỡi tôi nói, đôi tai tôi kinh ngạc về tiếng nói của tôi; tôi thấy cái tôi
bên trong tôi đang mỉm cười, đang la hét, đang can đảm và đang sợ hãi; cuộc
sinh tồn của tôi kinh ngạc về thể chất tôi trong khi linh hồn tôi cật vấn tâm
hồn tôi, nhưng tôi vẫn vô danh và chung quanh tôi vây phủ cơn im lặng dị kỳ.
Ý nghĩ tôi là người lạ với xác
thân tôi, và khi đứng soi mình trước gương, tôi thấy trên khuôn mặt một nét vẻ
mà linh hồn tôi không nhận biết, và tìm thấy trong đôi mắt một hình ảnh mà bên
trong tôi không chứa đựng.
Khi tôi bước lơ đãng trên đường
phố rộn rịp, trẻ con chạy theo và la lớn: “Này, người mù đây! Chúng ta hãy cho
y chiếc gậy dò đường để y cảm nhận lối đi”.
Khi chạy trốn bọn trẻ, tôi gặp
một đàn trinh nữ, họ níu ve áo tôi và nói: “Này, y điếc đặc như đá; chúng ta
hãy rót đầy đôi tai y bằng âm nhạc của tình yêu”.
Khi tuông mình trốn khỏi các
nàng, tôi tới gần những người trung niên nơi chợ búa, họ tập trung quanh tôi và
thét lên: “Này, y câm như nấm mộ với chiếc lưỡi đang líu; chúng ta hãy kéo duỗi
nó ra”.
Khi tôi chay thoát bọn họ, một
đám đông người cao niên chỉ vào tôi bằng những ngón tay lẩy bẩy và nói: “Này, y
là kẻ rồ dại, lạc mất tâm trí trong thế giới quỉ thần và ma cà rồng”.
Tôi người lạ trên thế giới này;
tôi lang thang khắp vũ trụ, từ đầu này tới hết đầu kia nhưng không tìm được chỗ
gối đầu; tôi chẳng biết người nào mình chạm trán, cũng chẳng biết cá nhân nào
lắng nghe tâm trí của tôi.
Lúc rạng sáng, tôi mở đôi mắt
không ngủ và thấy mình bị giam hãm trong hang động âm u, trên trần đeo lơ lửng
lũ côn trùng và dưới sàn bò lúc nhúc bầy rắn độc.
Khi tôi bước ra ngoài để gặp
ánh sáng, chiếc bóng thể xác tôi đi theo tôi còn chiếc bóng tinh thần tôi đi
trước tôi, dẫn tới một nơi không thể biết trong cuộc tìm kiếm những điều vượt
quá am hiểu của tôi và nắm bắt những đối tượng vô nghĩa đối với tôi.
Tới chiều hôm, tôi quay về
chiếc giường của mình, làm bằng lông vũ mềm mại và lót bằng gai nhọn. Tôi nằm
chiêm nghiệm, cảm giác những nỗi khát khao ray rứt và hạnh phúc cùng những niềm
hi vọng đau thương và hoan hỉ.
Vào nửa đêm, bóng ma các thời
đại quá khứ cùng thần linh của nền văn minh bị lãng quên lẻn qua kẻ nứt vách đá
tới viếng thăm tôi… Tôi đăm đăm nhìn chúng và chúng chằm chặp ngó tôi; tôi nói
với chúng và chúng cười trả lời tôi. Và tôi ra sức túm chặt chúng nhưng chúng
lọt qua các ngón tay rồi tan biến như sương mù trên mặt hồ.
Tôi người lạ trên thế giới,
chẳng một ai trong vũ trụ này hiểu ngôn ngữ của tôi. Trong tâm trí tôi bất chợt
hình thành các kiểu mẫu của hồi ức kỳ quặc, và trong đôi mắt tôi phát sinh
những hình ảnh dị thường và những bóng ma ảm đạm. Tôi đi trong cánh đồng bỏ
hoang, ngó theo những con suối nhỏ chảy mau, và hướng mắt từ lũng sâu cao dần
lên đỉnh núi. Tôi nhìn thật gần mấy hàng cây trần trụi nẩy lộc sinh quả và rụng
lá trong cùng một khoảnh khắc, và thấy các cành rơi xuống biến thành bầy rắn
lốm đốm. Và tôi thấy lũ chim bay lượn bên trên, hót líu lo và than khóc, rồi
ngừng lại mở ra đôi cánh và biến thành đàn trinh nữ tóc dài không khoác áo choàng,
nhìn tôi từ đằng sau đôi mắt sẫm màu mê đắm, mỉm cười với tôi bằng đôi môi đầy
đặn đẫm mật và dang đôi tay ngan ngát hương ra mời mọc. Rồi đàn trinh nữ đi lên
và biến khỏi tầm mắt tôi như những bóng ma, để lại bầu trời vang vọng lời các
nàng chế nhạo cùng tiếng cười mai mỉa.
Tôi người lạ trên thế giới… tôi
là thi sĩ gom thành thơ những gì cuộc đời viết ra văn xuôi và là kẻ viết ra văn
xuôi những gì cuộc đời gom thành thơ.
Và vì thế tôi người lạ, và tôi
vẫn là người lạ cho tới khi đôi cánh trắng muốt và thân thiện của Thần chết
mang tôi trở về xứ sở tuyệt đẹp của tôi. Ở đó, nơi ánh sáng, bình an và am hiểu
cùng cư ngụ, tôi sẽ sẵn sàng trông đợi những người lạ khác, những kẻ sẽ được
giải cứu khỏi thế giới chật hẹp tối tăm này bằng chiếc bẫy thân thiện của thời
gian.
Cái chết là sự sống của
thi sĩ
Ðêm soãi những chiếc cánh tối
tăm ôm ghì thành phố trên đó Thiên nhiên đã trải y trang tuyết trắng thuần
khiết; và loài người rời mọi con đường, quay về nhà mình tìm hơi ấm, trong khi
gió phương bắc trầm lặng thăm dò các công viên đang nằm hoang vắng. Nơi ngoại ô
đứng một túp lều rất cũ trĩu nặng tuyết và đang bên bờ sụp đổ. Cuối căn nhà nhỏ
âm u ấy, trên chiếc giường nghèo khó đang nằm hấp hối một thanh niên, đăm đăm
nhìn ánh đèn leo lét, chập chờn mờ tỏ theo hơi gió lọt vào. Hắn, kẻ giữa mùa
xuân sự sống, hoàn toàn biết trước đang nhanh chóng đến gần giờ phút bình yên
giải thoát mình ra khỏi cuộc đời. Với lòng biết ơn, hắn sẵn sàng chờ đợi cuộc
viếng thăm của Thần chết; trên bộ mặt xanh xao ấy rạng một bình minh hy vọng,
trên đôi môi ấy nở nụ cười buồn bã, và trong đôi mắt ấy ánh lên sự bao dung.
Hắn là một thi sĩ đang lụi tàn
vì đói trong một thành phố sống giàu có. Hắn được đặt vào đời để làm sôi nổi
tâm hồn con người bằng những lời sâu sắc đẹp đẽ. Hắn là một linh hồn cao nhã,
được Nữ thần Am hiểu sai đi, để vỗ về và làm tinh thần con người lắng dịu.
Nhưng hỡi ơi! Hắn đang hân hoan nói lời vĩnh biệt trần gian lạnh lẽo mà không
nhận được một nụ cười từ những cư dân xa lạ của nó.
Hắn đang thở hơi cuối cùng, và
không ai ở bên giường để cứu lấy kẻ đồng hành duy nhất của hắn là ngọn đèn dầu
kia và những trang bằng giấy bằng da hắn đã ghi khắc cảm xúc của trái tim mình.
Vận dụng hết hơi sức cạn kiệt còn lại, hắn đưa hai tay lên trời và động đậy đôi
mắt một cách vô vọng, như thể muốn nhìn thật sâu trần nhà để thấy các ngôi sao
đang ẩn mình đằng sau tấm mạng mây trời mượt mà.
Và hắn nói, “Hãy đến, hỡi Thần
chết xinh đẹp, linh hồn ta đang khát khao ngươi. Hãy đến kề bên ta, hãy tháo gỡ
xiềng xích cuộc đời vì ta kéo lê chúng nay đã mệt. Hãy đến, hỡi Thần chết ngọt
ngào, hãy giải thoát ta khỏi người bên cạnh, những kẻ ngó ta như thể một người
lạ vì ta thông dịch cho họ ngôn ngữ của thiên thần. Nhanh lên, hỡi Thần chết
bình an, hãy mang ta ra khỏi các đám đông này, những kẻ để ta trong góc âm u
lãng quên vì ta không cướp bóc người yếu ớt như họ vẫn làm. Hãy đến, hỡi Thần
chết dịu dàng, hãy ghì chặt ta dưới đôi cánh trắng của ngươi vì đồng bào ta
chẳng cần tới ta. Hãy ôm ấp ta, hỡi Thần chết chan hòa tình yêu và thương xót,
hãy để môi ngươi chạm vào đôi môi không bao giờ còn nếm trải chiếc hôn của
người mẹ, không còn chạm vào đôi má của người chị và cũng chẳng còn mơn trớn
các đầu ngón tay của người tình. Hãy đến và mang ta đi, hỡi thần chết yêu dấu
của ta”.
Lúc ấy, bên chiếc giường của
thi sĩ hấp hối hiện ra một nữ thiên thần với sắc đẹp siêu nhiên và thiêng
liêng, cầm trên tay vòng hoa huệ trắng. Nàng ôm ấp hắn và khép đôi mắt hắn để
hắn chỉ còn nhìn thấy với con mắt tinh thần. Nàng in dấu một chiếc hôn rất sâu
và thật dài, rồi dịu dàng rời môi mình để lại trên đôi môi hắn một nụ cười toàn
mãn vĩnh cửu. Kế đó, túp lều nhỏ biến thành chốn vắng, chẳng còn ai cóp nhặt
các trang bằng giấy bằng da bị thi sĩ xem là đồ vô dụng và cay đắng rải chung
quanh mình.
Hàng trăm năm sau, khi người
dân thành phố trỗi dậy, ra khỏi cơn say ngủ vô minh bệnh hoạn và bắt gặp bình
minh của am hiểu, họ dựng lên một đài tưởng niệm trong khu vườn đẹp nhất của
mình, và cử hành lễ hội hằng năm để vinh danh thi sĩ ấy, người viết lên các tác
phẩm giải phóng họ. Ôi, sự vô minh của con người tàn bạo biết mấy!
No comments:
Post a Comment